Thứ Năm, 2 tháng 3, 2017

"LUẬN VĂN NHÃ THUYÊN"

“LUẬN VĂN NHÃ THUYÊN”
Hay sự thất bại của việc vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu?


Bùi Công Thuấn





Tôi đọc luận văn “Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” của Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên)-xin gọi tắt là “luận văn Nhã Thuyên”- khi những vấn đề chính trị của luận văn này đã được giải quyết xong rồi. Đối với tôi, việc công nhận và thu hồi quyết định công nhận luận văn này là việc hành chính nội bộ của trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tôi đọc văn bản của “luận văn” như đọc một “tác phẩm” phê bình văn học, và không xem xét những vấn đề xã hội xung quanh luận văn này. Đó là công việc của những nhà phê bình chính trị, nhà phê bình xã hội.
Thực ra đây chỉ là một luận văn tốt nghiệp của một sinh viên Cao học, tức là một dạng bài tập thực hành xác định năng lực nghiên cứu của sinh viên. Vì thế nó nằm trong giới hạn của việc đánh giá ấy. Chưa đòi hỏi tác giả phải là một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, chưa đòi hỏi luận văn phải là một công trình nghiên cứu có những khám phá, kiến giải và đặt ra được những vấn đề mới, có tầm vóc. Sở dĩ tôi quan tâm đến luận văn này vì có nhiều vấn đề Lý luận và phê bình văn học được tác giả đặt ra, mà nếu được xem xét, có thể rút ra được điều gì đó có ý nghĩa trong bối cảnh của lý luận và phê bình Việt Nam đương đại

MỘT NGÒI BÚT LÝ LUẬN VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC CÓ TRIỂN VỌNG

Tôi bị cuốn hút vào văn bản luận văn và đọc luận văn với một tâm trạng thú vị (nửa đầu của luận văn). Luận văn toát ra chất trí tuệ, chất trí thức, sự hiểu biết sâu sắc vấn đề và tinh thần dấn thân của người viết. Tác giả cũng kết hợp được cách viết văn chương với cách viết chính luận và thổi vào trang văn sự nhiệt thành, khiến cho con chữ có sức động cựa. Đặc biệt là tác giả tỏ ra “có nghề” trong việc sử dụng từ ngữ, dựng đoạn, trình bày vấn đề, trong năng lực diễn giải những vấn đề lý luận. Nhiều chỗ, tác giả mạnh dạn đưa ra những nhận định, những đánh giá và lý giải của mình với một thái độ hết sức tự tin. Tác giả thực sự tin vào lý thuyết văn học mà mình sử dụng làm, tin vào vốn tri thức và năng lực đọc và diễn giải văn bản. Đặc biệt tin vào một “mạch ngầm văn chương, mạch ngầm chính trị” trong xu thế ngoại vi hóa đang phát triển và lớn mạnh của thời đại, của xã hội Việt Nam và của văn chương đương đại.

Nhã Thuyên (Đỗ Thị Thoan) nếu tiếp tục được những ưu thế của ngòi bút như trong luận văn này thì văn chương Việt Nam hy vọng có được một nhà lý luận phê bình đầy triển vọng. Rất tiếc những năng lực (năng lực văn chương, năng lực lý luận phê bình, năng lực viết) của Nhã Thuyên lại bị dẫn dắt bằng những ảo tưởng (người trẻ vốn ảo tưởng, do hạn chế tầm nhìn, do ít trải nghiệm thực tế, cũng có thể ảo tưởng vì có chỗ dựa tinh thần nào đó, như một niềm tin chẳng hạn), thành ra luận văn không đứng vững được, và có rất ít giá trị.

MỘT CHIẾN LƯỢC THỔI PHỒNG ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Tôi gọi là “chiến lược” vì Đỗ Thị Thoan có ý thức sâu sắc về vấn đề, về cách làm và những bước tiến hành để đưa đối tượng vào mục tiêu mong muốn.

Thực chất nghiên cứu của Đỗ Thị Thoan là nghiên cứu về thơ của một nhóm sáng tác có tên là Mở Miệng. Họ tuyên bố “không làm thơ”. Theo Nhã Thuyên thì nhóm này nằm trong mạch ngầm văn chương Việt Nam đương đại, vì tác phẩm của họ không được phép xuất hiện công khai, cũng không được các nhà phê bình để mắt tới, trong khi họ không rời khỏi mắt của công an văn hóa. Trong suốt luận văn, Nhã Thuyên luôn gắn cho họ nhãn mác nhà thơ ”cách tân, cách mạng”, và trong diễn ngôn của mình, Nhã thuyên khẳng định đầy tin tưởng rằng họ là những tài năng, họ tạo nên trung tâm văn hóa mới, tạo sân chơi mới với những nguyên tắc thẩm mỹ mới. Từ vị trí bên lề, ở ngoại vi, họ giải trung tâm chính thống và tiến vào trung tâm mới trong một không gian đa trung tâm. Để làm được điều đó, họ lật đổ tất cả.

Nhã Thuyên đã làm thế nào để thực hiện mục đích trên?

1.Dùng lý thuyết văn học để thiết lập “cơ sở pháp lý” cho địa vị toàn cầu của Mở Miệng

Nhã Thuyên đặt nhóm Mở Miệng vào không gian rộng của toàn cầu hóa, của những vấn đề thời đại và lịch sử (dù Mở Miệng chỉ là nhóm rất nhỏ trong bóng tối của sinh hoạt văn chương Việt Nam đương đại). Đây là một tham vọng ảo tưởng của tác giả. Bởi cho đến cuối luận văn, sau những hào quang đã tô vẽ cho Mở Miệng, tác giả không sao cứu vớt được đối tượng nghiên cứu của mình khỏi sự sụp đổ, để hiện nguyên hình là một nhóm nhà thơ phá phách, và chỉ thế thôi.

Trước tiên Nhã Thuyên dùng lý thuyết trung tâm-ngoại vi, và thuyết về cái bên Lề, cái Khác để định vị Mở Miệng và cho rằng Mở Miệng chọn vị trí bên Lề để tồn tại.

Dẫn theo Derrida, Foucault, Nhã Thuyên khẳng định Sự trỗi dậy của cái bên lề - một hiện tượng có tính quy luật của vận động:
“Tôi muốn sử dụng một khái niệm quan trọng trong nghiên cứu văn hóa đương đại là Margin (Lề). Một khái niệm mang tính khách quan dùng để tham chiếu sẽ loại trừ khả năng chụp mũ chính trị khi vướng mắc vào các cặp nhị phân ngoài lề/trung tâm, chính thống/phi chính thống. Khái niệm này được phân tích dưới đây, nương theo các tổng thuật của Gordon E. Slethaug trong Từ điển bách khoa lý thuyết văn chương đương đại... Khái niệm này xuất hiện trong Of Grammatology (Về ngữ pháp học) của Derrida, một trong những lý thuyết gia triết học và văn chương Pháp lỗi lạc, trong đó, chiến lược chính của Derrida về cái khác (Différance) thách thức khả thể của bản sắc, sự giống nhau hoặc cái bên trong có thể xem như quyền lực thay thế một cách độc lập của sự khác biệt (difference) của nó, cái khác (other) của nó, hay cái bên lề (margin) của nó...”
...Ở đây quan niệm văn hóa như một tổng thể lại cần được xác định...

...Có thể hình dung diễn ngôn văn hóa, trong đó có văn học, như một sân chơi, mà người tham gia phải tuân theo những luật lệ định sẵn. Những cuộc nổi loạn trong văn học – thường được gắn kèm với danh từ “cuộc chơi‟ – thực ra lại là cuộc chơi nhằm phá hủy diễn ngôn quyền năng này và duy trì một quyền năng khác. Do đó, trong cấu trúc tổng thể này luôn ngầm diễn ra một mối quan hệ xung đột về quyền lực, với nhu cầu thay thế, chiếm chỗ. Và do đó, cái thường được xem là giá trị (tức cái trung tâm hiện hữu) không phải cái phổ biến, cái bất biến mà có tính điều kiện, phụ thuộc vào những bối cảnh về văn hóa, xã hội, chính trị cụ thể, trong đó, một trung tâm đang tồn tại có thể bị hủy bỏ quyền lực, giải cấu trúc, hay “giải trung tâm”…

...Sự nhận thức về trung tâm đi liền với khát vọng giải trung tâm, hay giải cấu trúc một trung tâm – điều mà Derrida luôn nhấn mạnh. Giải cấu trúc, với Derrida, chính là sự tiếp cận cái khác, cái vắng mặt.
Trong phần tổng thuật về khái niệm centre/decentre, Godorn E. Slethaug giới thiệu hai nhân vật khác là Foucault và Lacan. Foucault không đặt trọng tâm vào cấu trúc, mà đặt trọng tâm vào những tiến trình của quyền lực/quyền năng...”

Trong nhiều lý thuyết văn học Nhã Thuyên nêu ra ở trên, ngoài lý thuyết về trung tâm-ngoại vi, còn có bóng dáng các lý thuyết văn hóa văn học khác như thuyết trò chơi... Nhã Thuyên nói dài dòng về lý thuyết nhằm vào hai mục đích là, đặt Mở Miệng vào phạm vi thế giới, địa vị này của Mở Miệng có lý thuyết văn hóa xác định, và chuẩn bị cho luận điểm Mở Miệng hôm nay là bên Lề, là cái Khác, là ngoại vi, nhưng trong xu thế tất yếu, Mở Miệng sẽ giải trung tâm chính thống (Hội Nhà Văn, ý thức hệ Xã hội chủ nghĩa, thiết chế Nhà Nước và sự lãnh đạo của Đảng) để trở thành trung tâm văn hóa, quyền lực trong tương lai.

Suốt nội dung luận văn, mặc dù Nhã Thuyên đã diễn giải rất dài dòng về lý thuyết, với một lòng tin như tin vào Kinh Thánh, thì đến cuối luận văn, Nhã Thuyên bị buộc phải thú nhận sự thất bại. Lý thuyết không cứu được cho những bao biện của Nhã Thuyên về Mở Miệng:
“Điều quan trọng nhất, theo tôi không hẳn nằm ở việc đánh giá Mở Miệng mà nằm ở việc giải bỏ những định kiến với Mở Miệng và giải hủy các tiếp cận không thích hợp với Mở Miệng. Văn bản thơ của Mở Miệng cũng cần được đặt trong một khái niệm rộng hơn về “tính văn bản‟ hơn là sự phân tích lẻ tẻ từng bài thơ. Ở đây, sự ứng dụng lý thuyết là bất khả, nhưng không thể không sử dụng và tăng cường nền tảng nhận thức tri thức về các lý thuyết để minh giải Mở Miệng, cũng như nhiều hiện tượng đương đại khác. Nó có tính chất toàn cầu, lại có tính chất loại hình ở các nước cùng hoàn cảnh, lại là cái đặc thù Việt Nam.”

Nguyễn Quốc Chánh được Nhã Thuyên dẫn lời cũng nhận ra sự vô dụng của lý thuyết: “Ở đâu con người còn bị tước đoạt quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ chính kiến, thì ở đó phương tiện nào trở nên hữu dụng nhất để làm văn chương phản kháng đều có lý để được chọn lựa, bởi đây là một vùng phi lý thuyết.”

Thực ra sự thất bại của Nhã Thuyên không phải là ở sự vận dụng lý thuyết, mà ở chỗ Nhã Thuyên đã không nhận ra rằng mỗi lý thuyết chỉ có thể giải thích được một vài hiện tượng nào đó, và lý thuyết nào cũng có mặt hạn chế. Nhã Thuyên đã không vận dụng vận dụng tổng thể nhiều lý thuyết văn hóa như thuyết chức năng - cấu trúc (G. Spencer và E. Durkheim), thuyết khuếch tán, thuyết tiến hóa văn hóa (Edward Taylor) Thuyết truyền bá văn hóa (Grafton Elliot Smith…) thuyết “Tân tiến hóa” của Leslie, trường phái Cấu trúc Pháp và Claude Levi-Strauss, Trường phái Duy vật văn hóa (Marvin Harris), Thuyết xung đột, khuynh hướng khách quan chủ nghĩa (B. Erasov) và khuynh hướng phân tích văn hóa (L. Ionin). Quan điểm Xã hội học thấu hiểu của M. Weber, Sinh thái học văn hóa (Ezra Park, J. Stuard)... Nếu nhìn tổng thể như thế, Nhã Thuyên sẽ không bị ảo tưởng về một “hiện tượng” văn hóa. Điều quan trọng là đối tượng để áp dụng lý thuyết (nhóm Mở Miệng) lại là một hiện tượng quá nhỏ, đơn lẻ, không đại diện cho một trào lưu, không chứa đựng những đặc điểm lớn có tính toàn cầu, vì thế việc vận dụng lý thuyết gặp thất bại. Mở Miệng, sau những thổi phồng của Nhã Thuyên, đã xẹp xuống, hiện nguyên hình chỉ là một nhóm nhỏ, tan vào bóng tối, không để lại vệt sáng nào. Nhã Thuyên viết: “Cho đến nay, cảm giác chặng đường của Mở Miệng đã đạt tới đỉnh cao, và do đó, có dấu hiệu của sự thoái trào nếu không có những thay đổi đột phá, những phản tư mới.”

2. Đặt Mở Miệng bên cạnh những “người khổng lồ” để khẳng định Mở Miệng lớn hơn “người khổng lồ”

Ấy là Nhã Thuyên so sánh nhóm Mở Miệng với các nhà văn, nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm và nhóm Sáng Tạo ở Sài Gòn. Nhưng làm sao so sánh những “kẻ phá phách” trong của Mở Miệng với những nhà văn tài năng sáng chói, có khí phác lẫm liệt, và nhân các lớn như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm! Cũng vậy, những “cách tân, cách mạng” thơ ca của Mở Miệng làm sao sánh được với những cách tân thơ ca của Sáng Tạo như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên...khi Mở Miệng “không làm thơ”, khi họ chủ trương chỉ sử dụng những cái đã có sẵn, không sáng tạo cái mới.

Thế nên những nhà văn nhà thơ tài năng trong Nhân Văn Giai Phảm lừng lững và tỏa sáng mãi với lịch sử thi ca dân tộc, trong khi Sáng Tạo luôn được coi là một cột mốc quan trọng của nỗi lực cách tân thi ca Việt thì Mở Miệng đã mất tăm trong bóng tối.

Đặt Mở Miệng bên cạnh những “người khổng lồ”, Nhã Thuyên chỉ làm cho Mở Miệng trở nên nhỏ nhoi và đáng thương hơn thôi. Lại là một nỗ lực thất bại của Nhã Thuyên.

3.Đặt Mở Miệng vào lòng phong trào “Samizdat – Xuất bản ngầm trong các xã hội chuyên chế”


Nhã Thuyên giới thuyết rằng:
“Ngày nay samizdat đã trở thành một đối tượng quan trọng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn các nƣớc Âu - Mỹ. Tạp chí Poetics Today số mùa đông năm 2008 đã thực hiện chuyên đề samizdat, với những tiểu luận công phu của các học giả cung cấp một bức tranh tổng thể về samizdat, xác định những tiền đề lý thuyết, những thuật ngữ cơ bản, các kiểu loại và chức năng của samizdat, trong đó, đặc biệt chú trọng đến sự tồn tại, phát triển và những đặc điểm của nó ở các quốc gia (đã từng là) cộng sản như Bulgari, Czechoslovakia, liên bang Soviet hậu Stalin, so sánh samizdat quá khứ và xuất bản ngầm đương đại để đưa ra những lý giải mới và mở rộng khái niệm samizdat”

Nhã Thuyên mô tả hiện tượng samizat từ Liên Xô đến Đông Âu. Đồng thới dẫn theo Martin Machovec, Nhã Thuyên cũng nói đến samizdat ở chủ nghĩa Fascist Đức, Nhật bản, ở Italy, các chế độ chuyên chế, gia trưởng và độc tài quân sự trong các nước châu Á, châu Phi và Mĩ Latin ngày nay, các nước phân biệt chủng tộc? Và, vô số biến thể của samizdat như các hiện tượng xuất bản ngầm, phá cách, độc lập trong thế giới dân chủ đương đại…
Người đọc sẽ “choáng ngợp” trước phong trào Samizat trên thế giới, và tưởng rằng việc xuất bản ngầm, lén lút của Mở Miệng đang nằm trong xu thế toàn cầu rộng lớn như thế. Và nếu quả thật như thế thì Mở Miệng mang được tầm vóc và phẩm tính cách mạng toàn cầu rồi! Nhưng không phải như vậy.

Nhã Thuyên thú nhận:
“Tôi chưa có một xác minh tư liệu nào về samizdat văn chương đầu tiên ở Việt Nam,… nhưng thuật ngữ samizdat gần như hoàn toàn vắng bóng và xa lạ cho đến ngày nay. Những người sử dụng thuật ngữ này để chỉ các hiện tượng như Mở Miệng chủ yếu hướng tới cộng đồng bên ngoài (như Đinh Linh, Đoàn Cầm Thi). Ở Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có những tuyển tập samizdat – được xuất bản công khai như ở Nga,
Tuy nhiên, có thể ước đoán, trong sự so sánh với Đông Âu và Soviet, samizdat ở Việt Nam là hiện tượng muộn mằn và không mạnh mẽ, đồng thời, vì là hiện tượng muộn mằn, nó đã dung hợp nhiều xu hướng khác nhau...”

Cả phong trào Samizat được Nhã Thuyên giới thiệu rầm rộ như thế, rút lại chỉ có một người. Vâng, một người thì sao gọi là phong trào. Nhã Thuyên thành thật nhìn nhận: “samizdat, chỉ hoàn toàn samizdat, hiện nay, có lẽ chỉ có Bùi Chát.”

Nhã Thuyên không biết đấy thôi. Trong kháng chiến chống Mỹ, ở Sài Gòn đã có rất nhiều những ấn phẩm văn, thơ, nhạc được in Ronéo phô biến trong các phong trào sinh viên học sinh đấu tranh (thí dụ : Hát cho đồng bào tôi nghe, Dậy mà đi...). Không biết những ấn phẩm phổ biến lén lút ấy, việc xuất bản ngầm ấy có phải là Samizat không? Trong đời thường, các hội đoàn, các nhóm sinh hoạt, khi cần tài liệu, họ cũng photo và ghi rõ “lưu hành nội bộ”, nghĩa là xuất bản không xin phép, lưu hành ngầm....

Nghiên cứu khoa học, nhà nghiên cứu phải dựa trên tư liệu chính xác, có thẩm quyền và được công nhận rộng rãi. Vậy mà Nhã Thuyên đã khẳng định vấn đề khi chưa có một xác minh tư liệu nào về samizdat văn chương và ở Việt Nam, thuật ngữ samizdat gần như hoàn toàn vắng bóng và xa lạ cho đến ngày nay, trong khi “phong trào” Samizat chỉ có một người. Điều này cho thấy “nghề nghiên cứu” của Nhã Thuyên chưa đạt được chuẩn tối thiểu, cần phải học lại, và những gì Nhã Thuyên nói về Samizat trên thế giới, ngầm đặt Mở Miệng vào vị trí đương đại có tính toàn cầu đều trở thành hư không. Mở Miệng chỉ là hư vô! Lại là một nỗ lực thất bại nữa cùa Nhã Thuyên!

Có thể khẳng định rằng “chiến lược nghiên cứu” của Nhã Thuyên là “chiến lược thổi phồng”, mang tính “hù dọa học thuật” với những người không nắm rõ vấn đề, nhằm tôn vinh Mở Miệng và “phong thánh” cho những “kẻ phá phách”. Nhưng chiến lược ấy hoàn toàn thất bại bởi tay chính người đẻ ra nó là Nhã Thuyên.

LUẬN VĂN CỦA NHÃ THUYÊN CÓ NHỮNG GIÁ TRỊ GÌ?

1. “tái dựng một hiện thực như-nó-là,”

Phương pháp của Nhã Thuyên là: “chọn một góc nhìn văn hóa thích hợp để tái dựng một hiện thực như-nó-là...Thao tác của tôi là đi thẳng vào sự hiện diện và những thực hành căn bản nhất của Mở Miệng”

Nhã Thuyên giải thích: “Lề, như đã xác định từ đầu, không phải là đích đến của tôi mà là một góc nhìn. Ở đây, sự biểu hiện kinh nghiệm của kẻ bên lề sẽ là quan trọng để bình luận về mức độ thành công của họ. Vị trí bên lề của Mở Miệng và những người đồng ý hướng tạo thành cái Khác (Other), vừa như cái nhỏ hơn, vừa là cái mang ý thức tự tôn về sự riêng biệt. Nó có thực sự là một cái Khác ...”; “Ở đây, văn hóa được quan niệm như một cấu trúc tổng thể và từ Lề, có thể xoay nhiều hướng để quan sát nó. Một chiến lược của các nghiên cứu văn hóa là “đọc‟ các hiện tượng xã hội văn hóa như một văn bản (text). Theo đó các thực hành của Mở Miệng, theo nghĩa rộng, cũng có thể được nhận diện như một văn bản.”

Văn bản của luận văn dài 114 trang, phần tái dựng một hiện thực như- nó- là các bài thơ của Mở Miệng từ trang 62 đến 95 (33 trang, chiếm 29% cả luận văn). Còn lại là phần giới thuyết, diễn giải ý nghĩa từ “tuyên ngôn” của Mở Miệng, đặt trong không gian lịch đại và đồng đại với các hiện tượng văn hóa, văn học khác. Có 16 bài thơ được đem ra xem xét cách thực hành thơ của Mở Miệng. Tôi cho rằng tỷ lệ chất liệu gốc để nghiên cứu so với cả luận văn là chưa thỏa đáng. Phần diễn giải chiếm 71%, có nhiều chỗ lặp lại.

Cách làm như vậy không thể nói là khoa học được. Suốt 62 trang đầu của luận văn chỉ là giới thuyết và diễn giải rất chủ quan của tác giả. Không hề thấy Mở Miệng hiện diện “như- nó- là” là một đối tượng nghiên cứu của luận văn. Hành ngôn này có tính chất áp đặt ý nghĩa cho Mở Miệng, đồng thời như một ám thị có tính trấn áp mọi phản biện của người đọc (nếu có)

2. Sự chọn lựa và thực hành các thao tác.

Để thực hiện luận văn, tác giả phải thực hiện nhiều thao tác. Sự chọn lựa thao tác là chủ quan và có mục đích.
Trong rất nhiều lý thuyết văn hóa, tại sao Nhã Thuyên lại chọn lý thuyết ngoại vi-trung tâm, lý thuyết về cái bên Lề, cái Khác từ Derrida, Foucault, sau đó lại dẫn thêm Deleuze?, Người đọc luận văn rất dễ bị va đập những tư tưởng này của Deleuze: Đặc điểm của thiểu số là tính không thuần nhất, không đồng dạng (hetérogene). Nó không bị kiềm tỏa trong vòng quy phạm thống trị của đa số; nó có thể “thêm vào”, nghĩa là không thể đo đếm được, và không chịu “xếp hàng”; văn học thiểu số tương phản với đa số có chức năng xác định quy phạm, chứ không đơn giản đối lập hay chống lại đa số, bởi nó chỉ là một trong những nơi tạo ra cái mới bằng sự sáng tạo, cho thấy những lựa chọn khác, những lĩnh vực nằm lưng chừng ở giữa, những khả thể của sự biến dịch, trở thành. Chính theo nghĩa ấy, văn chương - của và thông qua thiểu số - mang tính chính trị, cách mạng, dù không phải là một nền văn chương dấn thân (littérature engagée) theo nghĩa quen thuộc; Giải lãnh thổ hóa (deterritorialisation) là một trong nhiều thuật ngữ trung tâm của Deleuze và Guattari,… Nói chung, giải lãnh thổ hóa là vận động nhờ đó một sự vật thoát ly hay thoát khỏi một lãnh thổ có sẵn. [dẫn theo Bùi Văn Nam Sơn-“văn học thiểu số” và một cách đọc khác về Kafka] Những tư tưởng này được Nhã Thuyên dùng làm “cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý” cho sự tồn tại của Mở Miệng khi Mở Miệng muốn giải trung tâm để thiết lập trung tâm mới, giải chính thống (Hội Nhà văn, các thiết chế tư tưởng và pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng...). Rõ ràng sự chọn lưa và diễn giải lý thuyết văn hóa của Nhã Thuyên là có chủ đích để phục vụ cho mục đích của mình.

Nhưng kết quả sự vận dụng các lý thuyết trên là như thế này, Nhã Thuyên thú nhận: “Dù sự phân biệt cái bên lề và trung tâm là có thực, chứ không phải bức tường dựng lên do mặc cảm giả tạo, một cách nói rành mạch mang tính chất định danh trung tâm là gì, bên lề là gì vẫn mơ hồ. Sự lấn dần vào trung tâm của các nhóm thiểu số dường như đồng thời lại đẩy cái “trung tâm‟ nào đó xa hơn, làm cho nó vô hình hơn, như đường chân trời luôn ở phía trước ta vậy”

Bây giờ hãy xem thao tác diễn giải của Nhã Thuyên.
Trả lời phỏng vấn của Nguyên Hữu Hồng Minh trên Evan, Lý Đợị nói dứt khoát: “ chúng tôi không làm thơ... chúng tôi chỉ làm ra những tác phẩm thôi” và công bố một chùm thơ trong đó có bài:
Đây thôn Vĩ Dạ? - Vâng! - F2

Sao em không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió, mây đường mây;
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?
Có chở ai về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa;
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà

Không thể định danh được đây là kiểu loại “tác phẩm” gì như Lý Đợi nói. Bởi không có bất cứ một sáng tạo nào (sáng tạo nghĩa là làm ra cái mới, là yếu tố quyết định làm nên tác phẩm văn học). Nói cho đúng đây chỉ là một trò nghịch ngợm, phá phách. Lý Đợi lắp ghép một câu của Nguyễn Đình Chiểu (câu cuối cùng) vào bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc tử, tạo nên một cái gì đó hết sức quái gở! Hành động này phá hủy cấu trúc, nội dung, ý nghĩa tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử và thơ Nguyễn Đình Chiểu. Trò nghịch này nếu viết chơi trên cát rồi xóa đi thì không có vấn đề gì, nhưng nếu in công khai và đề tên tác giả là Lý Đợi thì có lắm vấn đề. Lấy thơ người khác làm của mình thì đó là ăn cắp. Hàn Mặc Tử nếu còn sống sẽ kiện Lý Đợi ra tòa về hành vi ăn cắp này. Đem Nguyễn Đình Chiểu đặt dưới Hàn Mặc Tử là một hành vi phản văn hóa, vì Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước, cuộc đời và tác phẩm của ông gắn bó trực tiếp với cuộc đấu tranh chống xâm lược của dân tộc, trong khi Hàn Mặc Tử là nhà thơ Lãng mạn, bị bịnh phong cùi phải sống cách ly với loài người. Không có mẫu số chung nào giữa hai tác giả này. Phá hủy toàn bộ lý tưởng văn chương của Nguyễn Đình Chiểu là một hành vi vô văn hóa theo đúng nghĩa của từ này. Lý Đợi đã nói trung thực hành vi của mình là “không làm thơ”. Việc “làm thơ” như làm bài Đây Thôn Vĩ Dạ?-Vâng-F2 của Lý Đợi chỉ là một trò nghịch ngợm, phá phác có ý thức về vô ý thức văn hóa, điều mà Nhã Thuyên gọi là “thực hành thơ”, và diễn giải như sau:

“Khi Mở Miệng tuyên ngôn Không Làm Thơ, đó cũng chính là cách để tồn tại như một cái Khác. Làm cái không thơ, làm thơ phản thơ là nỗ lực giải cấu trúc quan niệm về chất liệu, về thi tính. “Không làm thơ‟ thì không phải không làm mà làm cái Không Làm, nghĩa là giải cấu trúc quan niệm về hành vi thơ, về người làm thơ, [và tất nhiên, sẽ bao gồm cả mối quan hệ với chất liệu thơ]. Hành vi này đồng thời là một thái độ phản kháng. Họ không phản kháng trong mối quan hệ với truyền thống, như khi Sáng Tạo muốn chôn tiền chiến và Trần Dần đòi chôn Thơ Mới, các nhà thơ Mở Miệng phản kháng cả xu hướng làm thơ với chữ hay với nghĩa, mà làm thơ như một hành vi. Toàn bộ con người nhà thơ, bằng các thao tác, bằng môi cảnh…vẫn làm ra bài thơ, nhưng bài thơ ấy không tồn tại độc lập mà là một mắt xích trong chuỗi tương tác vô tận. Chính vì thế, Mở Miệng phải dùng đến cụm từ “thực hành thơ”

Toàn bộ đoạn văn là diễn giải của Nhã Thuyên về cái gọi là “tuyên ngôn Không Làm Thơ” của Mở Miệng. Nhã Thuyên dùng một loạt cấu trúc câu có từ “là” để diễn giải, áp đặt cách hiểu của mình vào cụm từ “không làm thơ” của Mở Miệng và thổi phồng nó lên. Nói cho đúng, Nhã Thuyên chỉ mượn lời của Mở Miệng để nói nhận thức của mình về thơ của Mở Miệng. Bởi diễn giải luôn là chủ quan. Người diễn giải “khám phá ý nghĩa” của văn bản theo một định kiến tư tưởng, chính trị, văn hóa có trước, rồi thực hành diễn giải theo chiều hướng chiến lược được định sẵn, để đạt đến mục đích đề ra, bất chấp ý nghĩa khách quan của văn bản. Trong toàn văn bản luận văn của Nhã Thuyên là cách diễn giải như thế này. Nhiều nhận định của Nhã Thuyên về Mở Miệng là rất hàm hồ, và bản thân người diễn giải đi vào ngõ cụt. Nếu U. Eco còn sống, ông sẽ bác bỏ toàn bộ những diễn giải của Thã Thuyên.

3.Đặt ra và giải quyết những vấn đề

Nhã Thuyên đã đặt ra nhiều vấn đề cho mục đích nghiên cứu của mình:
Đây là nhiệm vụ nghiên cứu: ”Vấn đề chính được đưa ra ở đây là vị trí bên lề của Mở Miệng: Vị trí này là gì? Họ đã nói được kinh nghiệm gì? Họ làm gì, như thế nào? Hình ảnh tương lai của nó? Có thể bình luận gì về tính cách tân và cách mạng của nó?”
“Hàng loạt câu hỏi có thể và phải được đặt ra… Đây là một hiện tượng chính trị đội lốt thi ca, hay là một cuộc cách tân văn chương gây hiệu ứng chính trị? Tính chất cách mạng và cách tân của nó ở đâu, và có xung đột nhau không?...Từ vị trí bên lề, họ đã xác định chiến lược tồn tại của mình như thế nào?”

“...Mở Miệng, rộng hơn là văn chương ngoại vi Sài Gòn, rộng hơn nữa là văn chương ngoại vi tiếng Việt cả Nam – Bắc, trong nước – ngoài nước, cùng với các hiện tượng như Nhân Văn Giai Phẩm, di sản văn học miền Nam trước 1975, văn học hải ngoại…. đang là những khu vực dở dang cần được nghiên cứu, và luôn cần phản tư lại, để tìm kiếm những khả năng và sức sống mới của văn hóa.”

Trích dẫn ý kiến của Derrida, Nhã Thuyên luận giãi:
“Giải trung tâm với Derrida, không phải là hủy bỏ trung tâm, mà là hướng tới một cấu trúc đa tâm…
“Các trung tâm được tạo ra một cách nhân tạo qua thời gian, và nhiều trường hợp có vẻ vĩnh viễn, nhưng luôn có nhu cầu liên tục về sự phá hủy và giải trung tâm. Quá trình này cho phép những khả năng mới để tồn tại, cho phép một nhận thức mới về những giới hạn và những khả năng của cái tôi, và cho phép một sự dung nhận mới về những cái khác, bất kể nó khác biệt đến thế nào.

Quá trình ngoại vi hóa (marginalization), như một hệ quả của nỗ lực giải trung tâm, trở thành cách mà cái ngoại vi, cái bên lề lựa chọn để chống lại sự trấn áp và tiêu diệt của trung tâm, cũng là cách để cái bên lề tồn tại như một cái khác (Other) với chính kinh nghiệm bên lề của nó. Cái bên Lề xuất hiện đòi làm cách mạng khi cái trung tâm trở nên cỗi già. Quá trình kết tụ sức mạnh thành dòng ngầm của những cái bên lề và “gây hấn‟ ở những thời điểm cách mạng không phải là một thuộc tính văn chương, mà là một hiện tượng phổ biến và nằm trong bản chất của vận động, do đó, cũng là một hiện tượng vận động có tính quy luật của lịch sử văn học, ở bất kì thời gian, không gian, trong bất kì thể chế nào, mọi thời đại, mọi quốc gia, lãnh thổ. Nó luôn là biểu hiện của một nỗ lực tìm kiếm ý thức văn hóa mới có tính chất thay thế, làm đối trọng với cái đang trở nên già cỗi, mòn sáo và chuyên chế

Sự trỗi dậy của cái bên lề, do đó, cũng là sự trỗi dậy của Cái Khác, vừa như một mặc cảm cần phải giải bỏ để tồn tại, vừa như một ưu thế là một hiện tượng có tính toàn cầu. Những hiện tượng văn chương Mĩ Latin, văn chương Á Phi, văn chương của người Mĩ gốc Phi, văn chương người Mĩ gốc Á, đồng thời tái cấu trúc một lãnh thổ văn chương mới, trong đó quá trình giải trung tâm luôn luôn diễn ra đồng thời với quá trình kiến tạo một thế giới đa trung tâm”

Những luận giải lý thuyết này, mạch ngầm ý nghĩa của nó là để nói về nhóm Mở Miệng. Khi sự vận động là có tính quy luật và có tính toàn cầu, thì tất yếu, Cái bên Lề, cái Khác (tức Mở Miệng) sẽ vận động giải trung tâm như Nhã Thuyên đề cập tới sẽ xảy ra. Đó là:

Mở Miệng (cái bên Lề) chống lại sự trấn áp và tiêu diệt của trung tâm (cái chính thống), để tồn tại như một cái khác (Other). Mở Miệng (Cái bên Lề) đòi làm cách mạng vì cái trung tâm/ chính thống đã trở nên cỗi già.

Nhã Thuyên hình dung ra một cuộc đấu tranh quyết liệt đang diễn ra: “Dòng ngầm văn chương và nghệ thuật trong bối cảnh Việt Nam đương đại đã biểu hiện như một xu thế mạnh mẽ, đặc biệt từ điểm khởi đầu của thiên niên kỉ mới. Sự xuất hiện của những cặp khái niệm ngoại vi/ trung tâm, chính thống/ phi chính thống, phụ lưu/ chính lưu, v.v. cho thấy nỗ lực mô hình hóa những không gian văn chương đang xung đột (thấy được và ngầm ẩn) và phân chia”quyền lực‟, những cuộc tấn công và chống giữ, những tranh đấu (tưởng như) khó hòa giải… khi tính thống nhất của ý thức hệ bị/ được phá hủy”

Sau khi trình bày tình hình khủng hoảng của văn hóa xã hội Việt Nam, Nhã Thuyên nhận định:
“Nhưng giai đoạn khủng hoảng, phẩm tính phản kháng vốn tiềm tàng trong lòng các xã hội chuyên chế sẽ trỗi dậy. Đây là giai đoạn thích hợp cho nổi loạn, cho phá phách, cho thái độ vô trật tự, phi chính phủ. Chính tại đây, sự mất niềm tin vào bối cảnh, chán ngấy cái trung tâm, cái chính thống, cùng với nó là sự tan rã của ý thức hệ nền tảng, diễn đàn chính thống, sự ồ ạt du nhập của những tư tưởng mới và sự khơi nguồn những sáng tạo và phẩm tính phản kháng của các thế hệ đi trước,… đã tạo một không khí giao tranh hỗn độn thích hợp cho những cuộc cách mạng: một không khí vừa rời rã vừa dễ nổi loạn, vừa thiếu liên kết vừa dễ tập họp nhóm, vừa phi trung tâm vừa có những điểm để thiết lập một trung tâm mới.”

Nhã Thuyên đã viết những dòng rất hồ hởi trước viễn cảnh sự tan rã của ý thức hệ nền tảng, của xu thế giải trung tâm để xóa bỏ cái chính thống, và Mở Miệng sẽ nổi loạn, sẽ phá phách, sẽ làm cách mạng, sẽ xông xáo trong một cuộc giao tranh hỗn độn để thiết lập một trung tâm mới. “Họ đã lên tiếng đòi phá nốt những thành trì kiên cố của sự chuyên chế, khi niềm tin vào chế độ và sự tự do đang có đã tan rã”.

Có điều, từ khi Nhã Thuyên làm luận văn cho đến nay, những “dự báo” về bối cảnh xã hội, văn hóa Việt Nam đã không tan rã như ảo tưởng của Nhã Thuyên và việc đem một nhóm Mở Miệng có vài người để so sánh với hiện tượng văn chương Mĩ Latin, văn chương Á Phi, văn chương của người Mĩ gốc Phi, văn chương người Mĩ gốc Á…cũng chỉ là ảo tưởng của một con ếch ngồi đáy giếng nhìn bầu trời to bằng cái vung.

Sau quá trình đứng ở bên Lề, lấy cái Lề làm trục xoay nghiên cứu, Nhã Thuyên nhận ra cái thực tế này:
“Mở Miệng như một nhóm văn hóa chứ không phải một phong trào”. Cái gọi là cách tân, cách mạng của Mở Miệng rút lại chỉ còn là làm thơ Rác, thơ Dơ, thơ nghĩa địa với thủ pháp diễu nhại, một trò nghịch ngợm chữ nghĩa nhảm nhí như lời Nhã Thuyên dẫn lại nhận xét của Phan Nhiên Hạo:” Sỡ dĩ thơ rác vẫn tồn tại được là vì tuy ồn ào, nó khá vô hại về chính trị. Thậm chí, trên một số phương diện, vô tình thơ rác có lợi cho chính quyền nhiều hơn hại. ..Thơ rác cung cấp cho chính quyền một ví dụ tốt để khống chế tự do sáng tạo, viện cớ tự do sáng tạo chỉ dẫn đến hỗn loạn và nhảm nhí”.

“Mở Miệng cũng giải trung tâm thứ ngôn từ “thi hóa” trong các thứ văn chương “đèm đẹp”, những ẩn dụ, cách tu từ, cũng như những nỗ lực canh tân văn học bằng cách làm mới ngôn từ. Cuộc cách mạng về mặt ngôn từ của Mở Miệng có lẽ nên được hiểu ở tính chất khái quát đó”, nghĩa là thay mỹ học của cái đẹp bằng “mỹ học của cái Rác, cái Dơ, cái Tục”

Nhã Thuyên tự hỏi:“Vậy thơ nghĩa địa đã chết chưa?...Ở đây câu hỏi về phẩm chất của giễu nhại như một thủ pháp và một ý hướng lại được đặt ra. Về thủ pháp, dường như nó đến độ bão hòa”

“Thái độ hủy diệt mọi thành tựu quá khứ này tiếp tục cái gọi là tính chất lật đổ, đầy nhạo báng, một cách có ý thức. Tuy nhiên, về cấp độ thủ pháp, mà tiêu biểu là hình thức nhại, nhiều ý kiến cho rằng Mở Miệng không đem lại cái gì mới. Thủ pháp nhại (pastiche) không phải đặc quyền của ai.”…

“…Tuy nhiên, nỗ lực giải trung tâm của Mở Miệng, qua tuyên ngôn này, lại là nỗ lực thay thế cái trung tâm này bằng trung tâm khác, nỗ lực soán ngôi, chiếm chỗ “trung tâm thành ngoại vi, ngoại vi thành trung tâm” nên ngay trong tuyên ngôn đã bộc lộ ra những giới hạn của sự xơ cứng chăng?”…

“…Lý Đợi đã xác định việc thực hành thơ theo tinh thần Hậu Hiện Đại,… nhìn thấy ở lý thuyết đó một tinh thần tương thích với ý hướng của mình. “Giải nghiêm trọng, giải cấu trúc để hướng đến tính phát tán cấu trúc... là một quan tâm hiện nay. Không làm thơ để cách tân. Không làm thơ để đổi gác. Mà thật thoải mái: làm thơ như cái cách họ đã nghĩ và đang sống.”

“…khác với sự phát triển theo thời gian, tính chất gây hấn và xung đột với không gian của Mở Miệng sau cao trào năm 2004-2007 bắt đầu đi xuống,…”

“…Cho đến nay, cảm giác chặng đường của Mở Miệng đã đạt tới đỉnh cao, và do đó, có dấu hiệu của sự thoái trào nếu không có những thay đổi đột phá, những phản tư mới”

“Điều quan trọng nhất, theo tôi không hẳn nằm ở việc đánh giá Mở Miệng mà nằm ở việc giải bỏ những định kiến với Mở Miệng và giải hủy các tiếp cận không thích hợp với Mở Miệng. Văn bản thơ của Mở Miệng cũng cần được đặt trong một khái niệm rộng hơn về “tính văn bản‟ hơn là sự phân tích lẻ tẻ từng bài thơ. Ở đây, sự ứng dụng lý thuyết là bất khả”

Tôi xin không bàn luận gì thêm, vì Nhã Thuyên đã nói rất rõ kết quả nghiên cứu của mình là: “Điều quan trọng nhất, theo tôi không hẳn nằm ở việc đánh giá Mở Miệng”, và “, sự ứng dụng lý thuyết là bất khả”, nghĩa là Nhã Thuyên đã tự thú nhận mình thất bại hoàn toàn vì đối tượng được nghiên cứu (Thơ của Mở Miệng) không đáp ứng lý thuyết nền tảng, và mọi nỗ lực bao biện đều lộ ra sự giả trá khoa học.

Đối tượng nghiên cứu, ban đầu được thổi phồng lên đặt trong tầm vóc toàn cầu, trong xu thế vận động tất yếu của lịch sử và văn học, rằng Mở Miệng đồng nghĩa với cách tân, cách mạng, lật đổ, giải trung tâm chính thống/ quyền lực, thiết lập trung tâm mới, rằng xu hướng ngoại vi hóa là xu thế thời đại…rút lại, toàn thể hệ thống lý thuyết khoa học được đặt làm nền tảng, cùng với những nỗ lực “giải trung tâm, giải...giải...giải” của Nhã Thuyên không giải được điều gì được coi là giá trị của Mở Miệng. Trước sau như một, Mở Miệng khẳng định không làm thơ, không cách tân gì cả. Mở Miệng không giải được trung tâm/ chính thống nào, ngay cà việc tự giải thoát mình khỏi những đống Rác, vũng Dơ, và lặn ngụp trong cái Tục cũng không giải được. Các trung tâm / chính thống vẫn còn đó, thơ Việt vẫn vượt lên phía trước. Nghệ thuật luôn là sự sáng tạo cái Đẹp. Mở Miệng rút lại chỉ là một nhóm người viết lách ồn ào, phá phách, nhảm nhí và vô văn hóa.

Với kết quả nghiên cứu như thế -tôi tự hỏi- luận văn và công trình nghiên cứu của Nhã Thuyên đem đến những giá trị gì về học thuật và thực tiễn văn học Việt Nam?

4. Tại sao luận văn của Nhã Thuyên gây ồn ào?

Không cần phải dùng đến Giải Cấu trúc để giải cấu tư duy Nhã Thuyên, cũng không cần phải dùng đến Phân tâm học để khám phá thế giới tinh thần của Nhã Thuyên để thấy những ẩn ức chính trị đằng sau những mặt nạ ngôn từ. Bởi vì luận văn là diễn ngôn của chính Nhã Thuyên, còn thơ Mở Miệng chỉ là mặt nạ..

Luận văn không chỉ là một văn bản, một bài tập nghiên cứu, mà là một thái độ hành động trong tương tác giữa văn bản và đời sống. Deleuze xem văn bản văn chương là sức mạnh thay đổi trực tiếp ở trong thực tại. Trong sức mạnh ấy hàm chứa khả năng vượt bỏ những cấu trúc thống trị, độc quyền và mang lại những đối chọn, nhất là trong nền “văn học thiểu số. Ông khẳng định: “Nói là làm”, nói là thực hiện một hành động, không chỉ đơn thuần có tính ngôn ngữ. (đd)

Việc chọn đối tượng nghiên cứu, chọn hệ thống lý thuyết nền tảng, chọn chiến lược triển khai vấn đề được Nhã Thuyên thực hiện có ý thức sâu sắc. Thái độ diễn ngôn, kiểu ngôn ngữ, cả những thao tác kiến tạo luận văn cũng là sự chọn lựa có mục đích. Nói cụ thể, Nhã Thuyên chỉ mượn Mở Miệng làm chiêu bài để bộc lộ nhận thức, tư tưởng và thái độ chính trị của mình trước thực tại. Không phải vô tình mà Nhã Thuyên viện dẫn lý thuyết của Deleuze và Guattari. Theo Bùi Văn Nam Sơn, trong cái nhìn của Deleuze và Guattari, “văn chương … mang tính chính trị, cách mạng, dù không phải là một nền văn chương dấn thân (littérature engagée) theo nghĩa quen thuộc: (đã dẫn) Nhã Thuyên chọn chỗ đứng bên Lề là chọn đứng cùng mới Mở Miệng, để cùng lên tiếng, hơn thế Nhã Thuyễn còn nỗ lực đưa Mở Miệng từ “mạch ngầm” ra công khai, từ bóng tối ra văn đàn ban ngày (đấy là chưa nói việc Đỗ Thị Thoan đem giảng dạy Mở Miệng trong trường đại học, tức là đưa Mở Miệng vào thế giới học thuật sẽ có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với công chúng.)

Trong suốt luận văn, Nhã Thuyên lặp lại rất nhiều lần những tư tưởng này: Ngoại vi hóa là xu thế thời đại. “Nhìn trên diện rộng, giải trung tâm trong văn học Việt Nam cũng đồng nghĩa với quá trình ngoại vi hóa, hay ngoại vi hóa là để giải trung tâm văn học dòng chính, giải trung tâm cái chính thống”. Và cái chính thống ấy: “...sự lãnh đạo của Đảng...; Hội Nhà Văn, báo Văn Nghệ, nhà xuất bản Nhà nước. Chính thống trong nhiều năm là nói theo ý thức hệ chính thống. Nó trở nên già cỗi và trở thành lực cản”, và vì thế cần phải lật đổ.

Hãy nghe Nhã Thuyên diễn giải về mục đích và hiệu qua diễu nhại của Bùi Chát:. “Các thao tác thêm từ, cắt câu, ghép, râu ông nọ cắm cằm bà kia tạo nên những bài thơ nổi tiếng mới của Bùi Chát, không phải trong thế phản nghịch bài cũ, mà là để cùng tồn tại song song khiến cho việc tạo nghĩa thành một sự chơi tự do. Chính nhờ vào sự chơi tự do của tác giả và của người đọc mà ngôn ngữ thơ có thể mở nghĩa... tái định nghĩa cái đã có, nhất là những cái đã và đang có nguy cơ biến thành chân lý, thành thiết chế, như thiết chế của niềm tin tuổi trẻ [về thời hoa đỏ, về lựa chọn chẳng hạn], thiết chế về thơ, thiết chế về quá khứ dân tộc, về Hồ Chí Minh, về lý tưởng… Tất cả những tín điều đó được khai thác, bị tra vấn và hoài nghi – và lật đổ - nhất là lật đổ với tiếng cười, thì đó chẳng phải cái làm nên sức sống của thơ, chẳng phải là nỗ lực không mệt mỏi của nghệ thuật?”

Nhã Thuyên nói cụ thể hơn về mục đích chính trị của Mở Miệng: “ý hướng cách tân văn chương không thể thực hiện nếu không kết hợp với sự ”đấu tranh‟, với những tiếng nói đòi quyền lực, hay đòi xác lập một bản đồ văn chương mới, đặc biệt trong những xã hội không dành chỗ cho những khác biệt, những dị chủng. Đây cũng là tiền đề tiền đề cho một sự thay đổi nhận thức về tính tiền phong của văn chương giai đoạn này: mọi cách tân văn chương, ở những giai đoạn khủng hoảng niềm tin và những trông đợi vào thể chế, thường đến cùng với những tham vọng lật đổ ý thức hệ. Tính chất chính trị trong tinh thần đấu tranh với quyền lực thống trị là đặc điểm chung của họ

Nhã Thuyên không chỉ nói say sưa và nhiệt tình cổ vũ cho hành động “đấu tranh” của Mở Miệng, mà trong trích dẫn “thơ” Mở Miệng, Nhã Thuyên chọn diễn giải những bài phục vụ cho mục đích “lật đổ”, mục đích “tấn công trực diện quyền lực” của Mở Miệng, nghĩa là giải trung tâm cái chính thống.. Nhã Thuyên giải thích:“Bùi Chát lật đổ các slogan xã hội, các ảo tưởng được đóng đinh trong ngôn ngữ ý thức hệ “, rồi chọn các bài Hỏi đáp có thưởng (lật đổ Hửu Thỉnh- Hội Nhà văn Việt Nam), bài Đường Kách Mệnh (lật đổ Hồ Chí Minh), bài Chọn lựa của Văn Cao (lật đổ lý tưởng cá nhân), bài Hiện thực xã hội chủ nghĩa (lật đổ lý tưởng xã hội)...Nhưng Phan Nhiên Hạo cho rằng: “Dù có muốn, hiện nay thơ rác cũng không có khả năng “tấn công trực tiếp” quyền lực chính trị. Chế độ Việt Nam về cơ bản vẫn toàn trị... Đề cao tính “tấn công trực tiếp quyền lực” của thơ Rác là đề cao một điều không thực, và một lần nữa, rất gượng gạo.”

Cuối cùng thì một bộ óc thông minh như Nhã Thuyên cũng nhận ra những ảo tưởng của mình, trong đó có cả những ảo tưởng không nói ra.

Ảo tưởng về một mạch ngầm văn chương Việt Nam tuy đang còn là ngoại vi, nhưng trong quá trình ngoại vi hóa, mạch ngầm ấy sẽ trở thành trung tâm, thành chính thống. Nhưng mạch ngầm văn chương ấy là những tác giả, tác phẩm nào cụ thể, Nhã Thuyên đã không nói ra. Người đọc có thể hiểu đó là những tác phẩm văn chương phản kháng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhưng hỡi ôi, những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, hay Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi Buồn chiến tranh (Bảo Ninh),… đều xuất bản công khai, trong giòng văn chương chính thống (tác giả là nhà văn trong Hội Nhà văn Việt Nam), không thể gọi là mạch ngầm văn chương được. Hóa ra mạch ngầm văn chương của Nhã Thuyên chỉ có mấy cuốn foto chuyền tay nhau ở vỉa hè Sài gòn mà Nhã Thuyên đã ra sức nghiên cứu và cổ vũ.

Ảo tưởng về cách tân và cách mạng, tức là sự rệu rã, sơ cứng, mất lòng tin của cái chính thống (cả văn chương và chính trị) sẽ dẫn đến và sụp đổ, sẽ bị cái bên Lề, cái ngoại vi sẽ thay thế. Sở dĩ có ảo tưởng này vì Nhã Thuyên nói nhiều đến sự sụp đổ của Liên xô, của Đông Âu, đồng thời không loại trừ Nhã Thuyên được sự nâng đỡ, cổ vũ của các “trung tâm văn chương-chính trị” của người Việt cầm bút ở nước ngoài trên các diễn đàn như Talawas, Tienve, Hop Lưu, Gio-o (?)…Nhưng Nhã Thuyên sẽ không hiểu được tại sao Talawas “đang ăn nên làm ra” lại phải tự đóng cửa, và dù sau đó Phạm Thị Hoài có lập một trang mới là trang Procontra, thì chỉ một năm sau trang này cũng tự đóng cửa, còn Hợp Lưu và Tienve giờ chỉ sống lay lắt…Thành ra những gì Nhã Thuyên tưởng là xu thế vận động tất yếu của văn chương và chính trị, trong nỗ lực lật đổ và ngoại vi hóa cái chính thống trở thành ảo tưởng của một bộ óc ngây thơ chính trị trước cuộc đời.

Và một ảo tưởng có tính học thuật là ảo tưởng về sự thủ đắc các lý thuyết văn học mới. Có một sự thật là, trước đổi mới (1986), lý luận và phê bình văn học trong nước chủ yếu là Chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghiã. Nỗ lực đồi mới văn chương trong nước là nỗ lực từ bỏ phương pháp sáng tác này, cùng lúc tư tưởng đổi mới cho phép mở rộng cánh cửa tiếp cận các lý thuyết văn học nước ngoài. Nguyễn Hưng Quốc ở Úc, có một loạt bài giới thiệu các lý thuyết văn học nước ngoài trên Tienve.org. Dù còn rất sơ lược, nhưng đây là cái bản đồ giúp các nhà nghiên cứu trong nước có điều kiện tiếp cận vấn đề một cách hệ thống. Thụy Khuê ở Pháp cũng có một công trình nghiên cứu, giới thiệu các trào lưu phê bình văn học thế kỷ XX. Bà nói rằng công việc của bà là tiếp bước GS Nguyễn Văn Trung đã làm trong cuốn Lược khảo văn học III ở Sài Gòn 1968…Đối với người trẻ, đây là một thời cơ thủ đắc những lý thuyết văn học và phương pháp phê bình mới, từ đó mở ra một trào lưu mới như trào lưu thơ trẻ những năm đầu thế kỷ XXI với nhiều tên tuổi góp phần cách tân thơ Việt như: Vi Thùy Linh, Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly, Văn Cầm Hải, Mai Văn Phấn, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Hữu Hồng Minh…

Nhưng có một thực tế trái với nhận thức của Nhã Thuyên là, mọi cách tân thơ văn Việt lại xuất phát từ trong nước (tức là từ cái chính thống, từ trung tâm) rồi lan tỏa ra (thuyết khuếch tán) chứ không phải các tác giả Việt ở hải ngoại (ngoại vi) là những người đổi mới văn chương Việt trong nước (tức là cái ngoại vi lật đổ và thay thế cái trung tâm). Đồng thời nhiều nhà thơ nhà văn, nghệ sĩ hải ngoại trở về Việt Nam sáng tác, sinh hoạt như nhạc sĩ Phạm Duy, nhà văn Thuận, Nguyễn Văn Thọ, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng…(tức là cái chính thống, cái trung tâm không sụp đổ mà còn có sức thu hút mạnh hơn trước). Hiện thực ấy nằm ngoài nhận thức của Nhã Thuyên khi tác giả này chỉ sử dụng một ít lý thuyết về Lề của J. Derrida: ”Tôi muốn sử dụng một khái niệm quan trọng trong nghiên cứu văn hóa đương đại là Margin (Lề). Một khái niệm mang tính khách quan dùng để tham chiếu sẽ loại trừ khả năng chụp mũ chính trị khi vướng mắc vào các cặp nhị phân ngoài lề/trung tâm, chính thống/phi chính thống.“ ; và giải trung tâm của Michel Foucault: “không có trung tâm, nhưng luôn luôn có sự giải trung tâm, một chuỗi biểu thị lối đi ngập ngừng trúc trắc từ cái hiện diện tới cái vắng mặt, từ sự vượt quá tới sự thiếu hụt”

Nhã Thuyên sử dụng các lý thuyết này để thổi phồng vấn đề, như một kẻ u mê đánh nhau với cối xay gió, càng vung gươm càng bị đẩy lùi, và cuối cùng chấp nhận đầu hàng: “Điều quan trọng nhất, theo tôi không hẳn nằm ở việc đánh giá Mở Miệng”, và, “sự ứng dụng lý thuyết là bất khả”.

NHỮNG ĐIỀU LÝ THÚ VỀ LÝ LUẬN VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC

1.Nhã Thuyên viết: “Góc nhìn văn hóa và cách tiếp cận đa hướng là lựa chọn của tôi, để đưa ra những đề nghị về việc đọc và đọc lại, hiểu và hiểu lại nhóm Mở Miệng…”; …tính chất khách quan của nghiên cứu không được đề cao, bởi tôi sẽ tự thấy mình không có tâm thế để nói/ viết về hiện tượng này, nếu như tôi không can dự phần nào vào đời sống thơ đương đại, như một kẻ “ở giữa‟, cũng là một kẻ “ngoài lề‟ khi trực tiếp hay gián tiếp lựa chọn đứng về phía những cái bên lề.”

Việc Nhã Thuyên can dự vào đời sống thơ đương đại như một kẻ ngoài lề, chọn đứng về phía những cái bên lề thì đã rõ, nhưng người đọc tự hỏi “góc nhìn văn hóa” của Nhã Thuyên là góc nhìn như thế nào? Hãy cứ hiểu như thế này. Nhã Thuyên nhìn Mở Miệng là một hiện tượng văn hóa, và dùng các lý thuyết văn hóa để giải mã hiện tượng này, chứ không chỉ nhìn Mở Miệng như một hiện tượng văn học (mặc dù văn học cũng là một thành tố của văn hóa). Nhã Thuyên giải thích: “Cách ứng xử với một hiện tượng văn học dưới các góc nhìn và cách tiếp cận thuần văn học, chỉ tập trung vào văn bản sẽ trở nên thiếu chính xác khi văn chương hiện nay đang nỗ lực tham dự vào một bối cảnh rộng hơn, khi nó là biểu hiện của một cấu trúc xã hội - văn hóa đang biến động”

Nếu nhìn Mở Miệng ở góc nhìn văn hóa thì những vấn đề sau đây cần được trả lời. Thứ nhất, ngôn ngữ là thành tố quan trọng bậc nhất của văn hóa, việc Mở Miệng nói tục, văng tục, ca ngợi cái tục có được coi là có văn hóa không. Trong văn hóa Việt Nam, nói tục, chửi tục không bao giờ là văn hóa mà đó là thứ ngôn ngữ của những kẻ “đầu đường xó chợ”. Nhã Thuyên ca ngợi những chữ mà Nguyễn Quốc Chánh cho là “đẹp nhất” (ít được viết) trong Tiếng Việt: Lồn, Cặc & Đụ‟ mà “Sau 10 thế kỉ bị Tàu hầm nhừ, Lồn, Cặc, & Đụ có màu sắc khác: Âm hộ, Dương vật & Giao hợp” trong bài Đụ vỡ sọ của Nguyễn Quốc Chánh như thế này: “[Nguyễn Quốc Chánh] đã tái hiện một lịch sử của những chữ bị trấn áp, và ông xới lật chúng lên, phơi bày chúng ra ánh sáng, và trả lại chúng những vương miện nguyên thủy bị tước đoạt bởi nỗi sợ hãi, sự nô lệ của chính con người”. Từ, ngữ, tiếng nói (cái biểu đạt), bao giờ và trước tiên cũng dẫn tới sự vật được ý thức (cái được biểu đạt), bởi nếu không có “cái được biểu đạt”(ý thức về hiện thực) thì không thể có từ ngữ nói về nó. Thí dụ nếu không có cái bàn (được làm bằng gỗ…) thì không thể có từ “cái bàn”. Trong đời sống văn hóa của con người, những thứ dơ bẩn, tục tĩu được xác lập rõ để phân biệt với những thứ thanh cao. Từ ngữ biều đạt những thứ thanh cao và những thứ tục tĩu dơ bẩn có những màu sắc biểu cảm và được dùng trong những hoàn cảnh khác nhau, không thể có sự bình đẳng nào cả giữa những từ ngữ biểu đạt cái tục với từ ngữ biều đạt cái thanh. Chẳng hạn, trong diễn văn nhậm chức, một tổng thống Mỹ không được phép nói tục, chửi tục, vì văn hóa Mỹ không cho phép những hành vi vô văn hóa như thế xuất hiện trong một buổi lễ mà ở đó mọi nghi thức văn hóa đều rất cao. Cho nên hiện tượng thơ Mở Miệng làm thơ Rác, thơ Dơ, nói tục, văng tục xét về văn hóa, đó là sự suy đồi, không thể là “giải phóng ngôn ngữ” hay “cách tân, cách mạng “ gì cả.

Nói văn hóa, người ta nghĩ ngay đến việc ứng xử trong xã hội, bởi chính cách ứng xử của một người cho ta biết nhân cách của người ấy: Anh ta có văn hóa hay không? Hãy xem cách ứng xử của Mở Miệng trong việc làm thơ (nói theo Nhã Thuyên là thực hành thơ) thế nào (Thí dụ bài Đây thôn Vũ Dạ?-Vâng-F2 đã dẫn ở trên). Rõ ràng là Lý đợi ăn cắp thơ Hàn Mặc Tử và thơ Nguyễn Đình Chiểu, phá hỏng hoàn toàn một bài thơ rất hay của Hàn Mặc Tử và phá hủy hoàn toàn tư tưởng hết sức tiến bộ của Nguyễn Đình Chiểu về sáng tác văn chương.Vậy hành vi ăn cắp ấy, hành vi xúc phạm ấy của Lý Đợi, xét ở góc nhìn văn hóa có phải là một hành vi có văn khóa không? Câu trả lời là: Hành vi ăn cắp, hành vi xúc phạm người khác trong truyền thống văn hóa Việt Nam là vô văn hóa!

Nếu nhìn Mở Miệng bằng lý thuyết văn hóa trung tâm-ngoại vi, rằng xu thế ngoại vi hóa là một xu thế vận động có tính toàn cầu hóa, rằng cái ngoại vi sẽ giải cái chính thống, giải cái trung tâm, rằng chọn lựa vị trí bên Lề là chiến lược tồn tại của Mở Miệng…, thì Nhã Thuyên giải thích thế nào sự tàn lụi của Mở Miệng? Dĩ nhiên là Nhã Thuyên không giải thích được bằng lý thuyết văn hóa mà chỉ nói vớ vẩn: “khác với sự phát triển theo thời gian, tính chất gây hấn và xung đột với không gian của Mở Miệng sau cao trào năm 2004-2007 bắt đầu đi xuống, theo tôi, chính khi họ dùng văn chương như một công cụ bình luận xã hội trực diện, như Bùi Chát và Lý Đợi ở hai tập mới nhất… Nhiều bài trong tập Khi kẻ thù ta buồn ngủ như một phản – tuyên truyền mang tính chất tuyên truyền, và như là “không làm thơ” theo nghĩa truyền thống mà chính Mở Miệng đã lên tiếng đả phá ngay từ đầu”. Tôi không thấy lý thuyết văn hóa nào được Nhã Thuyên sử dụng để đưa ra nhận xét trên, mà chì thấy sự sụp đổ của lý thuyết trung tâm-ngoại vi. Thực tiễn sự “đi xuống” cả về tư tưởng và thực hành “không làm thơ” của Mở Miệng làm lộ ra tất cả những gì Nhã Thuyên ca ngợi, khẳng định, dự báo về Mở Miệng chỉ là ảo tưởng, và rằng chính Nhã Thuyên mượn Mở Miệng để diễn ngôn. Còn Mở Miệng, thực chất chỉ là một nhóm thơ quậy phá, nhảm nhí một cách vô văn hóa mà Nhã Thuyên có muốn giải huyền thoại về Mở Miệng cũng không được.

Một người khách du lịch đến một thành phố nào đó, Sài gòn chẳng hạn, thì trước tiên họ quan sát không gian văn hóa, cảnh quan, kiến trúc, nếp sinh hoạt…Họ ngắm nhìn bộ mặt văn hóa của thành phố và tham gia vào các sinh hoạt văn hóa (coi triển lãm tranh, nghe nhạc, giao lưu ở các câu lạc bộ nghệ thuật…). Đến Sai Gòn người ta nhận ra vẻ đẹp của kiến trúc Pháp, người ta nhận ra cái chất văn hóa Sài gòn qua khuôn mặt Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Thiên Thư, họa sĩ Chóe (Nguyễn Hải Chí), họa sĩ Bé Ký (Nguyễn Thị Bé)…Nếu Sài gòn đầy Rác, đầy cái Dơ, đầy những tiếng văng tục thì Sài Gòn sẽ là một thành phố như thế nào? Văn hóa trở thành giá trị của cuộc sống mà mọi thành viên phải nỗ lực góp sức xây dựng, từ những việc nhỏ nhất như sử dụng ngôn ngữ đến ứng xử đến sáng tạo cái đẹp cái mới góp phần làm giàu văn hóa và khẳng định cốt cách văn hóa Việt. Ở góc nhìn văn hóa, Mở Miệng góp phần gì vào việc làm giàu đẹp văn hóa Sài Gòn? Nguyễn Khải trong truyện ngắn Một người Hà Nội đã nhận xét về thành phố Sài gòn như thế này: “Sài Gòn rộng hơn, đông hơn đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp, nhã nhặn hơn người dân Hà Nội” Đó có phải là nhận xét về bộ mặt văn hóa Sài Gòn không? Mở Miệng không có chỗ đứng nào ở Sài Gòn, và nếu có chen chân vào một vỉa hè nào đó, thì Mở Miệng cũng chỉ làm dơ bẩn văn hóa Sài Gòn mà thôi!

Sự chọn lựa “góc nhìn văn hóa” và lựa chọn đứng về cái bên Lề của Nhã Thuyên khi quan sát, tìm hiểu, đánh giá về Mở Miệng hoàn toàn thất bại ngay từ phương pháp luận. Tất nhiên làm sụp đổ hoàn toàn diễn ngôn của Nhã Thuyên trong luận văn, và lộ ra tất cả sự non yêu của một ngòi bút lý luận và phê bình văn học trẻ.

2.Những phân tích trên chỉ ra rằng Nhã Thuyên đã chọn nhầm đối tượng để nghiên cứu, đã chọn nhầm góc nhìn và vị trí để quan sát, đánh giá; đã chọn sai lý thuyết để vận dụng, lý giải hiện tượng, và thực sự bế tắc trước sự suy tàn của Mở Miệng. Thực ra Nhã Thyên không nhầm mà là có ý thức sâu sắc mượn Mở Miệng để diễn ngôn. Mở Miệng thực chất chỉ là một “nhúm” thơ nghịch ngợm, phá phách không có cách tân, cách mạng gì cả. Những ý nghĩa mà Nhã Thuyên đã diễn giải về họ, là diễn ngôn của Nhã Thuyên phản ánh những ẩn ức chính trị muốn giải trung tâm cái chính thống, cái quyền lực, muốn tấn công trực diện, muốn lật đổ trung tâm để thay thế văn hóa của cái Đẹp, để văn hóa lấy “mỹ học của cái tục”, cái dơ lên ngôi.

Khi những sự việc liên quan đến Luận văn đã qua đi, có lẽ Nhã Thuyên đã hiểu hơn về văn hóa, về các lý thuyết văn hóa. Các nhà lập thuyết chỉ căn cứ vào một số hiện tượng khảo sát được rồi khái quát lên thành lý thuyết, vì thế một lý thuyết, dù có tầm bao quát rộng, cũng không thể lý giải mọi hiện tượng. Nó sẽ bị một lý thuyết sau đó bác bỏ hoặc bổ sung. Thí dụ, thuyết Chức năng-cấu trúc phản đối thuyết khuếch tán và thuyết tiến hóa văn hóa… Quá tin vào một lý thuyết văn hóa chính là chỗ tự giới hạn tầm nhìn của mình. Dòng chảy văn hóa, văn chương, có lúc đầy Rác và bị ô nhiễm bởi cái Dơ. Dòng chảy ấy do con người tạo nên, người ta sẽ phải làm sạch nó để trả lại dòng sông trong lành cho nhiều thế hệ.

Trước khi viết Luận văn, Nhã Thuyên là người đứng ở vị trí cái trung tâm, ở dòng chính thống, ở trung tâm quyền lực văn hóa. Khi viết Luận văn, Nhã Thuyên chuyển sang vị trí bên Lề, đứng với cái bên Lề, cùng cái bên Lề đòi giải trung tâm, giải chính thống, tấn công trực diện chính trị. Và bây giờ, nếu có dịp trở lại với Luận văn, Nhã Thuyên nên tiếp cận thêm lý thuyết Xung đột văn hóa (Karl Marx và Max Weber) để có thể lý giải tốt hơn đối tượng nghiên cứu của mình.
Tháng 2. 2017

Nguồn: Bùi Công Thuấn-Phê bình văn học-Diện mạo của một thời

________________________
“VĂN HỌC THIỂU SỐ” VÀ MỘT CÁCH ĐỌC KHÁC VỀ KAFKA (BÙI VĂN NAM SƠN) http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=14416%3A2013-06-17-12-35-57&catid=4188%3Avn--vn-hc&Itemid=7197&lang=vi&site=30

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét