Lý luận và phê bình văn học-Diện mạo của một thời
GS-TS TRẦN ĐÌNH SỬ và THI PHÁP HỌC
Bùi Công Thuấn
GS-TS Trần Đình Sử là một giáo sư hàng đầu của ngành giáo dục và cũng là nhà khoa học có uy tín trong nghiên cứu văn học. Ông nổi tiếng với nhiều công trình về Thi pháp học như Thi pháp thơ Tố Hữu (1987), Giáo trình thi pháp học (1993). Thi pháp văn học trung đại (1998), Dẫn luận thi pháp học (1999), và Thi pháp truyện Kiều (2002)... Ông cũng là trưởng tiểu ban xây dựng chương trình Ngữ văn THPT của Bộ GD&ĐT. Do những đóng góp to lớn về giáo dục và văn học, ông đã được tặng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba, Huân chương Lao động hạng nhì, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2000...Trong năm 2017 ông nhận Giải văn hóa Phan Chu trinh về nghiên cứu.
Tôi viết về ông với sự quý mến, trân trọng và chia sẻ, dù vậy, tôi cũng rất đắn đo khi viết những dòng này.
1.NGƯỜI TRÍ THỨC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Để hiểu một người, không gì bằng nghe chính người ấy tâm sự. Ngôn ngữ cung cấp cho người nghe thông tin về sự việc được nói đến (Cái biểu đạt dẫn đến hiện thực được nhận thức), thông tin về quyền lực của diễn ngôn, về chủ thể diễn ngôn, và hơn nữa...
GS-TS Trần Đình Sử kể về cuộc đời mình: [1]
“Tôi nhớ những ngày tháng Tám năm 45, nhà tôi ở cửa Nhà Đồ, thành phố Huế, một hôm tự nhiên ba tôi đem về cờ đỏ sao vàng, đem cả gươm và dáo dài. Tôi nhớ đã cùng ba tôi đi xem vua Bảo đại thoái vị. Tôi được đỡ leo lên cột điện có dóng sắt đóng chéo rất đau chân để nhìn sang Ngọ môn. Sau này được nghe nói lại, trước khi vua thoái vị, ông Trần Huy Liệu đứng chống nạnh hai tay, chỉ khi vua đọc xong chiếu thoái vị thì ông mới đứng chắp tay, đón ấn kiếm. Sau đó thì mặt trận Huế vỡ, cả nhà tôi chuyển ra Quảng Trị. Khi thuyền qua huyện Hải Lăng giữa đêm khuya thì bị nghi là Việt gian, hai bên bờ tiếng hô râm ran, bắt Việt gian, Bắt Việt gian. Nghe tiếng hò náo loạn, Ba tôi thức dậy vội cầm giáo ra đứng ở mũi thuyền nhìn quanh xem Việt gian ở đâu. Một lúc thì biết, hoá ra người ta nghi ba tôi là Việt gian. Hàng chục người giáo mác lội ra giữa sông vây chặt khiến thuyền chúng tôi suýt chìm, và chúng tôi bị đưa lên bờ, giải về nhà lao Hải Lăng. Đồ đoàn bị tịch thu hết. Tôi bị giam cùng ba tôi trong xà lim. Tôi nghĩ mình nên hát quốc ca để họ khỏi hiểu lầm, và tôi đã hát quốc ca rất to trong đêm, nhưng không ai đoái hoài. Sáng hôm sau chúng tôi được đưa lên xe tải có dân quân mang gươm áp tải, đưa về thị xã Quảng Trị. Về tới nơi thì gặp toàn người thân, người ta xem giấy tờ và cho về nhà. Hồi ấy mà bị nghi Việt gian dễ chết như chơi. Có nơi nghe nói Việt gian, không xét xử gì hết chém liền. Thật hú vía.
Nhà tôi ở thôn Phúc Khê, xã Triệu Sơn huyện Triệu Phong đã hai lần bị Tây lùng đốt trụi, sau đó chuyển lên chiến khu Ba lòng, ở thôn Làng Hạ, xã Triệu Nguyên. Tôi đã tham gia đội thiếu nhi cứu quốc xã, tham gia diễn kịch cương do các anh bên Ty công an tỉnh dàn dựng. Năm 1951 đi bộ ra Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh học ở Trại Thiếu sinh Quảng Trị, do tỉnh uỷ Quảng Trị tổ chức cho con em trong tỉnh, cùng Ngô Thảo và nhiều bạn khác. Sau năm 1954 tôi được chuyển sang trường Học sinh miền Nam, lúc đầu ở Diễn Châu, sau chuyển ra Đan Phượng, Hoài Đức rồi Tây Tựu, Thượng Cát, Từ Liêm, sau đó về Phổ thông cấp 3 Hà Nội, rồi Nguyễn Trãi 3 Cửa Bắc.
Khi ở Đức Thọ tôi đã cùng đội thiếu niên đánh trống cỗ vũ Cải cách ruộng đất, chứng kiến đấu và bắn địa chủ. Khi ra Hà Nội tôi cùng các bạn từng xe đất đắp đường Thanh Niên Hồ Tây, đắp bờ hồ Hoàn Kiếm, hồ Bảy Mẫu. Từng chứng kiến Nhân Văn Giai phẩm. Chứng kiến hợp tác hoá nông nghiệp. Vào tuyến lửa, chứng kiến chiến tranh leo thang, phá hoại của Đế quốc Mĩ. Chứng kiến ngày cả nước tang tóc khi Bác Hồ từ trần. Chứng kiến ngày vui toàn thắng, cả Hà Nội đổ ra Bờ hồ Hoàn Kiếm ăn mừng, rồi thống nhất đất nước. Chứng kiến người anh em núi liền núi sông liền sông đánh giết đồng bào biên giới phía bắc nước ta. Chứng kiến những ngày đất nước khốn khổ trong cơ chế bao cấp tem phiếu và bị cấm vận. Chứng kiến và tham gia ngày đổi mới. Chứng kiến sự sụp đổ niềm tin rồi sụp đổ hoàn toàn của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa. Chứng kiến sự sụp đổ của hàng loạt nguyên lí văn học.”
Ông trải lòng: “Nghiên cứu văn học là một ngành cực khó, không chỉ đòi hỏi năng lực nhạy bén mà còn đòi hỏi hiểu biết rất nhiều, rất toàn diện. Là một người Việt Nam lớn lên trong hai cuộc chiến tranh và những cuộc cách mạng xã hội liên tục, nghịêt ngã tôi cảm thấy thiếu thốn đủ thứ. Được sang học Trung Quốc, Liên Xô là những nước đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là rất vinh dự, tôi vẫn thấy thiếu thốn về tư tưởng, học thuật. Là người đã nắm vững tiếng Trung, tiếng Nga, song tôi luôn đau khổ vì không biết tiếng Pháp, tỉếng Anh, tiếng Đức, chưa hiểu hết nhiều điều trong lĩnh vực mà tôi quan tâm. Tôi luôn luôn cảm thấy sự lúng túng của mình. Cảm thấy thế giới của mình còn rất hạn hẹp. “[đd]
Khi nhận Giải Văn hóa Phan Chu Trinh 2017, ông tự nhận xét về cuộc đời hoạt động nghiên cứu của mình:
“Tôi là một giảng viên đại học, bắt đầu giảng dạy bộ môn lí luận văn học ở đại học sư phạm từ giữa những năm sáu mươi thế kỉ trước. Trong khi dạy, tôi dần dần nhận thấy tính chất công thức, sơ lược của lí thuyết theo quan điểm mĩ học Mác – Lênin thời ấy, chủ yếu dạy về quan điểm triết học và chính trị, không giúp nhiều cho người học thấy được đặc trưng, sự phong phú, vẻ đẹp cũng như giá trị văn hoá của sáng tác văn học. Nhờ tự học tiếng Nga và đọc các sách báo Nga hồi ấy, tôi thấy giới trí thức Liên xô vào thời “tan băng” đã có một bộ phận đi tìm những con đường tiếp cận mới, trong đó có thi pháp học. Các sách về phương diện này trước đó bị ngăn cấm, lúc bấy giờ đã lần lượt được in lại. Trên các tạp chí khoa học luôn có mục thi pháp, đăng tải các lí thuyết và tìm tòi mới. Do nghiên cứu lí thuyết bị cầm đoán, các nhà khoa học Nga đi vào nghiên cứu, phân tích tác phẩm, theo hướng thi pháp văn học với các tên tuổi lớn như M. Bakhtin, D. Li khachev, V. Shklovski, V. Girmunski…, cùng các nhà nghiên cứu trẻ ở Viện văn học thế giới như G. Gachev và các tác giả khác.
Thi pháp học nhấn mạnh đến nguyên tắc sáng tạo văn học lạ hoá và hư cấu, tạo ra một chỉnh thể có tính kí hiệu. Nó nghiên cứu thi pháp như hệ thống các phương thức, phương tiện tạo nên tác phẩm nghệ thuật, khẳng định tính quan niệm, tính chủ thể của sáng tác, nhận rõ sự khác biệt giữa hình tượng nghệ thuật với các hình ảnh sao chép giản đơn từ thực tế, từ đó chỉ ra nội dung, tính sáng tạo và cá tính của nghệ sĩ. Như thế thi pháp học góp phần khắc phục quan niệm phản ánh giản đơn và xã hội học dung tục, xác nhận tính
Thi pháp học là một hướng nghiên cứu mở, nó có thể dung nạp nhiều cách tiếp cận khác nhau như chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học, phân tâm học, kí hiệu học, nữ quyền luận, diễn ngôn học, xã hội học…Do đó mở rộng nghiên cứu các lí thuyết đó thì nghiên cứu thi pháp càng có thêm hiệu quả. Sau năm 90, song song với quá trình hội nhập, chúng ta tiếp thu thêm nhiều lí thuyết của phương Tây, việc ứng dụng thi pháp học đã đi vào chiều sâu. Nhiều công trình có thể không nêu tên thi pháp song thi pháp với tư cách là hệ thao tác nghiên cứu vẫn không bao giờ vắng mặt.
Bên cạnh dạy học lí luận văn học ở đại học, chúng tôi còn biên soạn chương trình và sách giáo khoa môn ngữ văn trung học phổ thông, trong đó chủ yếu là làm văn và đọc hiểu văn học. Chúng tôi nhận thấy cần thay đổi lối giảng văn cũ kĩ chủ yếu là dạy đọc chép. Trong đọc văn, chúng tôi khắc phục cách hiểu môn văn hẹp hòi chỉ là đọc các áng văn, thơ. Chúng tôi đề xuất cách hiểu văn nghĩa rộng, ngoài văn thơ là chính, học sinh còn đọc các văn bản có tính chất văn hiến, như cáo, chiếu, biểu, hịch, văn tế, các trích đoạn lịch sử, bình sử, các văn bản truyền bá khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên, văn bản báo chí. Bằng cách đó học sinh biết tiếp cận với các loại văn bản có nội hàm văn hoá của dân tộc để sau khi tốt nghiệp học sinh không xa lạ với văn hoá nước nhà và khoa học hiện đại. Chỉ tiếc là bộ môn giáo học pháp trong nhà trường còn quá cũ kĩ, chưa đáp ứng tư tưởng mới và chương trình con nặng nề. Để khắc phục sự cũ kĩ này, chúng tôi đã giới thiệu những cách tiếp cận mới như đọc hiểu văn học, các hình thức làm văn mới như biểu cảm, văn thuyết minh, nguyên tắc dạy học mới trên cơ sở lây học sinh làm trung tâm, phát triển cá tính của học sinh. Theo chúng tôi, dạy học văn học trong nhà trường không thể xa rời với văn hoá đọc…”[2]
Những chia sẻ của GS-TS Trần Đình Sử ở trên đủ để người đọc hình dung quá trình hoạt động khoa học của ông, hiểu được tâm thế và ước vọng của ông trong nghiên cứu, đồng thời cũng hiểu phần nào hiệu quả những công việc ông đã dành hết sức lực, tâm huyết để làm.
Có thể coi ông là một mẫu mực của người trí thức Xã hội chủ nghĩa. Ông đã sống, học tập và hoạt động trên đất nước Xã hội chủ nghĩa (Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô). Nhà Nước cũng dành cho ông nhiều ưu đãi để ông có thể hoàn thành những nhiệm vụ trí thức. Nhà Nước cũng đã dành cho ông phần thưởng tôn vinh những đóng góp của ông. Cũng như nhiều trí thức Xã hội chủ nghĩa khác, dù trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn của đất nước, ông đã nỗ lực vươn lên, học tập và nghiên cứu; và có những đóng góp quan trọng cho học thuật nước nhà, tạo ra những hiệu quả tích cực làm phát triển đời sống trí thức và đời sống xã hội (giáo dục) của một thời
2.THI PHÁP HỌC , “hướng nghiên cứu mở”
Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá cao các công trình Thi pháp học của GS-TS Trần Đình Sử. [3] Tôi xin không nhắc lại, chỉ ghi nhận đôi điều:
TS Cao Thị Hồng cho rằng: “Người đầu tiên xác lập được tư tưởng học thuật, đề xuất một cách đầy đủ nhất hệ thống luận điểm khoa học thi pháp học hiện đại là Trần Đình Sử. Bên cạnh đó ông còn đồng thời triển khai tư tưởng học thuật thông qua việc luận giải đánh giá các hiện tượng văn học Việt Nam từ trung đại đến hiện đại”. “Mô hình nghiên cứu của Trần Đình Sử bao gồm: quan niệm nghệ thuật về con người, không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, tình tiết, kết cấu, trần thuật, ngôn ngữ thể hiện”, “Điểm đặc biệt là mô hình lý thuyết này có tính linh hoạt mềm dẻo, nó có thể bao hàm vào bản thân nó những bình diện của phong cách học, tự sự học, tu từ học, ký hiệu học, ngữ học. Theo quan niệm của mô hình này, thế giới nghệ thuật chỉ có thể được quy nạp, khái quát từ cái nền ngôn từ của văn bản, xuất phát từ những biểu hiện của ngôn từ mà rút ra.”
TS Chu Văn Sơn nhận xét về văn phong của Trần Đình Sử: “Thi pháp học là lí thuyết khái quát từ nghệ thuật ngôn từ để trở về nghiên cứu nghệ thuật ngôn từ. Vì thế nó có một sức sống mạnh mẽ. Song, Thi pháp lại là thứ chúa phức tạp. Những người quen giản đơn không mặn mà lắm với Thi pháp cũng phải. Và khối người vẫn còn lầm lẫn, đánh đồng Thi pháp này với dạng thi pháp quen nghe trong truyền thống phương Đông hay Thi học của Arixtôt đến từ Hi Lạp.”; “Để cho ý của mình nổi trội và áp đảo, ông [Trần Đình Sử] đã huy động tất cả những kiến văn Đông Tây Kim Cổ có được để biện bác, thuyết phục. Lời thì sắc, ý thì chắc, mạch thì chặt, hơi thì nóng. Tất cả cứ toát lên một văn phong kiêu hùng. Phải, kiêu hùng là sắc thái nổi trội trong văn Trần Đình Sử. Đọc ông, người ta thấy đó là văn của trí và chí. Phía nào cũng ngùn ngụt.”
Nhà lý luận phê bình Đỗ Minh Tuấn nói về ảnh hưởng của GS-TS Trần Đình Sử: “Có thể nói, Trần Đình Sử đã đưa Thi pháp học lên ngôi ở Việt nam ngay trước thềm đổi mới, những người bảo thủ nhất trong nghiên cứu văn học cũng không phản đối. Các GS Đặng Thai Mai, Đỗ Đức Dục rất ủng hộ, cho rẳng Trần Đình Sử đã mở ra cánh cửa mới chưa từng có ở Việt Nam, mở ra những triển vọng mới cho nghiên cứu và phê bình văn học. Trần Đình Sử đã gây ngạc nhiên thú vị cho giới nghiên cứu, giảng dạy và phê bình văn học lúc bấy giờ khi nhấc bổng thần Ăng-tê nghệ thuật khỏi mặt đất hiện thực mà vị thần này vẫn còn nguyên sức mạnh, thậm chí còn tỏ ra nhiều năng lượng hơn xưa! Thế là, liền trong mấy năm trời, các viện nghiên cứu, Hội đồng lý luận phê bình Hội nhà văn, các tổ chuyên môn của một số trường Đại học, các diễn đàn, các CLB văn học nghệ thuật mời ông đến nói chuyện và tổ chức Hội thảo về thi pháp học y như ngày nay người ta mời các nhà cảm xạ học đến trình diễn trò thôi miên, hút những chiếc thìa nĩa, những chiếc muôi múc canh bay đến dính chặt vào thân thể!”
Lã Nguyên (PGS-TS La Khắc Hòa) là người có nhiều bài viết sâu sát về GS-TS Trần Đình Sử. Ông nhận xét về cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu: “Trần Đình Sử đã chứng minh đầy thuyết phục: thơ Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị Việt Nam…Trần Đình Sử đã đặt ra và giải quyết hàng loạt vấn đề mà trước nay nghiên cứu văn học ít quan tâm. Đó là những vấn đề như quan niệm nghệ thuật về con người, không gian và thời gian nghệ thuật, chất thơ và phương thức thể hiện”; “Tôi cho rằng, đây là một trong những hướng thi pháp học hiện đại có nhiều triển vọng nhất, bởi nó mở ra khả năng giải quyết hàng loạt vấn đề mà mĩ học nhiều thế kỉ đặt ra, nhưng chưa có câu trả lời thỏa đáng. Dĩ nhiên, nếu không có một trí tuệ sắc sảo, một tình yêu và ý thức trách nhiệm cao trước những giá trị tinh thần của dân tộc, chắc đâu cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu đã ra mắt bạn đọc!
Về cuốn“Thi pháp truyện Kiều” Lã Nguyên nhận xét, “cuốn sách của Trần Đình Sử đầy những phát hiện; phát hiện nào cũng sâu sắc góp phần nâng sự hiểu biết và trình độ cảm thụ của người đọc đối với Truyện Kiều lên một tầm cao mới”
Về cuốn “Trên đường biên của lí luận văn học của Trần Đình Sử, Lã nguyên nhận xét: Cuốn sách “là tuyển tập các tiểu luận đã được ông công bố rải rác trong vòng mươi năm trở lại đây. Tôi gọi đây là cuốn sách bàn luận về sự khủng hoảng của lí luận văn học và suy ngẫm, tìm kiếm lối thoát cho sự khủng hoảng ấy”.
PGS-TS Văn Giá kể lại: “Thế hệ chúng tôi, đọc Trần Đình Sử ngày đó vỡ ra được rất nhiều. Điều thấm thía nhất đối với chúng tôi đó là nghiên cứu văn học sao cho văn học được là văn học, tức là nhìn văn chương xuất phát từ cái nhìn nghệ thuật chứ không phải bằng cái nhìn của xã hội học hoặc chính trị thô giản. Các công trình của Trần Đình Sử đã góp phần kéo thế hệ chúng tôi và nhiều người khác ra khỏi cái vòng luẩn quẩn nội dung tư tưởng chính trị xã hội của văn học. Cái mệnh đề nổi tiếng: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu hình thức mang tính quan niệm” của Trần Đình Sử đã thực sự tiếp sức cho hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại nước ta.”
Những nhận xét đánh giá của các PGS-TS đã khẳng định GS-TS Trần Đình Sử mở ra khả năng giải quyết hàng loạt vấn đề mà mĩ học nhiều thế kỉ đặt ra, nhưng chưa có câu trả lời thỏa đáng. Đó là những đánh giá trân trọng và tôn vinh.
Tuy nhiên, mọi lý thuyết văn học đều có hạn chế của nó, ngay cả những lý thuyết văn học dựa trên những nền tảng triết học có giá trị (Phân tâm hiện sinh của J.P.Sartre chẳng hạn). Có lẽ sau những “thành công vang dội”, GS-TS Trần Đình Sử cũng nhận ra những giới hạn nghiên cứu lý thuyết về Thi Pháp học của ông. Ông viết: “Thi pháp học là một hướng nghiên cứu mở, nó có thể dung nạp nhiều cách tiếp cận khác nhau như chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học, phân tâm học, kí hiệu học, nữ quyền luận, diễn ngôn học, xã hội học…”; “Sau năm 90, song song với quá trình hội nhập, chúng ta tiếp thu thêm nhiều lí thuyết của phương Tây, việc ứng dụng thi pháp học đã đi vào chiều sâu. Nhiều công trình có thể không nêu tên thi pháp song thi pháp với tư cách là hệ thao tác nghiên cứu vẫn không bao giờ vắng mặt.”
Như vậy Thi pháp học (của Trần Đình Sử) chỉ là một “hướng nghiên cứu mở”, nó không phải là một lý thuyết văn học độc lập. Mô hình thi pháp học của Trần Đình Sử không đủ sức lý giải mọi vấn đề, mà cần phải dung nạp thêm các lý thuyết khác như chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học, phân tâm học, kí hiệu học, nữ quyền luận, diễn ngôn học, xã hội học. Thi Pháp học, thực chất, chỉ là một “hệ thao tác nghiên cứu”. Đúng vậy. Vận dụng Thi pháp học là xem xét quá trình nhà văn kiến tạo tác phẩm, từ ý thức thẩm mỹ đến chọn lựa đề tài chủ đề, chất liệu, kiểu tác phẩm, kiểu diễn đạt, dùng từ, tu từ…nói gọn lại là, đó là các thao tác hình thức kiến tạo tác phẩm. Nghiên cứu tác phẩm theo Thi Pháp học là nghiên cứu hình thức, dù đó là hình thức mang tính quan niệm do Trần Đình Sử đưa ra. Ngay cả phạm trù “Thế giới nghệ thuật” được coi là trung tâm của Thi pháp học Made in Việt Nam của Trần Đình Sử (chữ của Đỗ Minh Tuấn) cũng không phải do ông phát hiện ra. Đỗ Minh Tuấn cho biết: “Khái niệm “Thế giới nghệ thuật” có từ lâu, đã được các học giả lớn như Likhachop, Bakhtin ở Nga nói đến như là sản phẩm mới của thế kỷ 20 biểu hiện một tiềm năng sâu sắc của văn học nghệ thuật khác với đặc tính phản ánh giản đơn và sao chép. Trần Đình Sử không phát minh ra khái niệm này, nhưng ông đã sống hết mình với nó, đem nó vận dụng vào các thể loại văn học khá triệt để và sống động, làm cho nó sống được, gây ảnh hưởng lây lan.”
Ngày nay để khám phá tác phẩm, người ta dùng Cấu trúc luận và Giải cấu trúc cùng với các lý thuyết tiếp nhận. Thi Pháp học chỉ được vận dụng ở cấp độ tìm hiểu quá trình kiến tạo tác phẩm, như là thao tác hình thức. Bởi chỉ có thể dùng Thi pháp học để xem xét hệ thống tác phẩm của một tác giả, xem xét một trào lưu văn học, xem xét một nền văn học được sáng tác theo một khuynh hướng riêng. Thí dụ thi pháp thơ Thiền, Thi pháp thơ Đường, Thi pháp ca dao, thi pháp thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa…Thật khó có thể coi những đặc điểm kiến tạo của của một tác phẩm là thi pháp. Thí dụ, khó có thể nói về thi pháp truyện Chữ người tử tù nhưng có thể nói đến thi pháp Nguyễn Tuân dùng để viết Vang Bóng một thời…Chỉ khi những đặc điểm kiến tạo tác phẩm của một tác giả được tìm thấy trong toàn bộ hệ thống tác phẩm của ông ta, lúc đó mới có thể nói đến thi pháp. Cũng vậy Thơ Tố Hữu có sự chuyển đổi cả tư tưởng và nghệ thuật từ Từ Ấy đến Việt Bắc, Gió Lộng và Ra Trận… Thật khó nói đến một thi pháp thống nhất. Những đặc điểm chung về kiến tạo tác phẩm của Tố Hữu tạo nên phong cách thơ ông, còn cái gọi là Thi pháp thơ Tố Hữu, còn lại chỉ là thủ pháp nghệ thuật. Dù sao cũng có thể vận dụng lý thuyết “nghệ thuật như là thủ pháp” của trường phái Hình thức Nga như là Thi pháp.
Trương Vĩnh Trường [4] trên Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 377, có bài “Sự tráo trở của thi pháp” nhận xét về Thi pháp học của Trần Đình Sử. Sau khi so sánh những nhận định của GS-TS Trần Đình Sử viết về thơ Tố Hữu trong hai cuốn: Thi pháp thơ Tố Hữu” và cuốn Trên đường biên của lý luận văn học, Trương Vĩnh Trường đã đặt vấn đề: “Có hai Tố Hữu trong một Trần Đình Sử và ngược lại, có hai Trần Đình Sử trong một Tố Hữu.” Nghĩa là, trước kia GS-TS Trần Đình Sử hết lời khen thơ tố Hữu, còn bây giờ ông lại nói khác: “Các tác phẩm của Hồ Chí Minh, Tố Hữu trong phê bình văn học hiện nay được coi là kinh điển của văn học cách mạng. Tất nhiên vị trí kinh điển của văn học không phải nhất thành bất biến. Một khi hệ giá trị có thay đổi thì vị trí kinh điển của tác giả, tác phẩm văn học cũng thay đổi theo”. Lý giải điều này phải thế nào?
PGS-TS Văn Giá cho biết về cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu:
“Lứa chúng tôi ngày ấy cũng đã nghe lỏm được cái ý cho rằng Trần Đình Sử viết về Tố Hữu để...kiếm điểm… Sau này, khi tuổi lớn thêm, trong lúc tâm tình thân mật, tôi có đem chuyện này ra hỏi lại. Ông cười lớn: “Trời ơi, tôi viết quyển này là do Nhàn (Vương Trí Nhàn) nó đặt hàng. Nhàn lúc đó đang làm ở NXB Hội nhà văn. Nhàn bảo: năm nay năm chẵn kỷ niệm 40 năm cách mạng, đặt ông viết cuốn nói về thi pháp thơ Tố Hữu. Cách viết đừng lý luận nhiều, cứ đi vào tác phẩm luôn, lý luận ở ta có ai đọc đâu. Tôi nhận lời. Nhàn lại bảo: Nếu cần gặp Tố Hữu, NXB sẽ tổ chức. Tôi từ chối. Khi sách in ra, tôi gửi một cuốn đến NXB nhờ đem tặng ông Tố Hữu. Từ bấy, đến tận năm 1989, ông Hoàng Trinh gọi tôi bảo ông Tố Hữu không còn làm chức tước gì nữa, cậu nên đến thăm ông ấy một chút, ông ấy giờ buồn lắm. Tôi đến. Tố Hữu không nói một câu nào về quyển sách của tôi, mà ông nói đủ thứ chuyện trên trời dưới bể. Trưa rồi. Bụng thì đói chết cha đi được, mà ông ấy vẫn không dứt chuyện. Đến hơn 1 giờ chiều ông ấy mới tha cho...Nhưng mà phải nói ông ấy thông minh. Tiếng Việt ông ấy giỏi lắm, tinh tế lắm...Sau này, một hôm tình cờ gặp nhau, Trần Đương (dịch giả văn học Đức) nói rằng ông Tố Hữu bảo “cậu Trần Đình Sử viết được đấy”...Về chuyện này, tôi tin Trần Đình Sử chân thành.”
Theo PGS-TS Văn Giá, GS-TS Trần Đình Sử viết cuốn Thi Pháp thơ Tố Hữu chỉ là viết theo “đơn đặt hàng” của Vương Trí Nhàn. Nhưng tôi nghĩ rằng, lời khen của Tố Hữu không phải là không có ý nghĩa đối với con đường thăng tiến học thuật của GS-TS Trần Đình Sử. Bởi lúc ấy Trần Đình Sử mới ở Liên Xô về, và Thi Pháp thơ Tố Hữu là công trình đầu tiên trình làng, báo công với Nhà nước. Chọn thơ Tố Hữu để viết công trình chắc chắn là một diễn ngôn có ý nghĩa chính trị của Trần Đình Sử.
3. DẠY VĂN LÀ DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
Nói về việc biên soạn chương trình và sách giáo khoa Ngữ Văn PTTH của GS-TS Trần Đình Sử, PGS.TS Đỗ Ngọc Thống (Phó vụ trưởng vụ giáo dục trung học (Bộ GD&ĐT), có bài Trần Đình Sử- từ một góc nhìn viết khá cặn kẽ.[5]
“Làm thế nào để có được một công chúng văn học có trình độ? Câu trả lời sẽ hết sức phiến diện nếu như không thấy hết vai trò của nhà trường; nếu không cần và không quan tâm đến việc dạy học văn ở nhà trường. Trong khi cả nhà văn và công chúng văn học đều trải qua và chịu ảnh hưởng của học vấn nhà trường. Nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường là hình thành, bồi dưỡng, nâng cao trình độ “tiếp nhận” tác phẩm văn học cho HS”…
…“CT Ngữ văn THPT năm 2002 thì quan niệm dạy văn trước hết là dạy đọc văn, hình thành và rèn luyện phương pháp, cách thức đọc-hiểu văn bản mới thực sự trở nên rõ nét và nhất quán. Người chủ trương và góp phần quan trọng trong việc khẳng định quan niệm này là GS.TS. Trần Đình Sử, trưởng tiểu ban xây dựng chương trình Ngữ văn THPT của Bộ GD&ĐT khi đó.”…
…“Dạy học đọc-hiểu tác phẩm văn chương theo tinh thần này được hiểu một cách khá toàn diện. “Đó là một quá trình bao gồm việc tiếp xúc với văn bản, thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò, tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết và cả các giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn học. Đọc hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu mạch văn, bố cục và nắm được ý chính, cũng như chủ đề của tác phẩm. Lý giải những đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Trong quá trình học đọc, HS sẽ biết cách đọc để tích lũy kiến thức, đọc để lý giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện. HS sẽ học cách trích câu hay, trích chi tiết, trích ý, học cách thuyết minh, thuật lại nội dung văn bản đã học”…
“…Những nét chính về quan niệm đọc-hiểu văn bản vừa nêu trên được ghi trong CT Ngữ văn THPT của Bộ GD&ĐT năm 2002, nhưng thực chất là của GS Trần Đình Sử, người chịu trách nhiệm chính trong việc khởi thảo CT Ngữ văn THPT hiện hành... Rõ ràng quan niệm này là sự triển khai, tiếp nối và nhất quán với lý luận thi pháp mà ông hiểu rất tường tận”…
Sau nhiều năm ngành giáo dục phổ thông thực hiện chương trình và sách giáo khoa do ông thực hiện, GS-TS Trần Đình Sử có lẽ đã nhận ra sự hạn chế của phương pháp dạy văn do ông đề xuất. Ông nói: “Chỉ tiếc là bộ môn giáo học pháp trong nhà trường còn quá cũ kĩ, chưa đáp ứng tư tưởng mới và chương trình con nặng nề.”
Cách kiểm chứng đúng nhất là phải xem học sinh PTTH học Ngữ văn như thế nào và đạt được kết quả gì từ chương trình và SGK do ông thực hiện? Hình như chưa có một điều tra nào cụ thể, chỉ biết rằng có nhiều tiếng kêu ca rằng học sinh chán học văn.
Thực tiễn dạy Ngữ Văn ở PTTH có nhiều vấn đề.
Nếu dạy văn là dạy đọc hiểu văn bản thì trên lớp thầy cô không thể thực hiện được ý tưởng này. Thí dụ, Vợ Nhặt của Kim Lân, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyện Minh Châu, hay Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, mỗi tác phẩm chỉ có 2 tiết dạy, thầy cô dạy đọc hiểu như thế nào theo yêu cầu của GS-TS Trần Đình Sử là: “Đọc hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu mạch văn, bố cục và nắm được ý chính, cũng như chủ đề của tác phẩm. Lý giải những đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó”? Chỉ cho học sinh đọc văn bản không thôi cũng đã gần hết giờ rồi, còn đâu mà giảng giải chữ, giảng câu đến bố cục, chủ đề, đặc sắc nghệ thuật. Vợ Nhặt có rất nhiều yếu tố văn hóa Bắc bộ, nếu không giảng thì học sinh không sao cảm nhận được tác phẩm. Trong giáo dục, yếu tố người học có ý nghĩa quan trọng. Tôi không rõ GS-TS Trần Đình Sử đã thử dạy ở THPT một tiết nào chưa để ông có thể kiểm nghiệm quan niệm dạy văn của mình?
Đọc hiểu văn bản đòi hỏi trình độ rất rộng về tri thức: tri thức văn hóa nhiều mặt, kết hợp với các lý thuyết văn học và phương pháp phê bình văn học (Phương pháp tiểu sử, phương pháp giáo khoa, phương pháp xã hội học Mác-xít, xã hội học văn chương của Bakhtin, Cấu trúc luận, Giải cấu trúc, Phân tâm học, lý thuyết tiếp nhận…). Ngay cả thầy cô, nhiều người cũng chật vật với tác phẩm dù đã có sách giáo viên hướng dẫn. Làm sao học sinh tự mình có thể giải mã tác phẩm. Xin đọc bài của TS Chu Văn Sơn viết về bài thơ Đàn ghita của Lorca, thơ Thanh Thảo, và bài viết về Chiếc Thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Chính TS Chu Văn Sơn cũng chưa hiểu đúng hai tác phẩm này. Bài thơ của Thanh Thảo viết bằng bút pháp Siêu Thực, nhưng TS Chu Văn Sơn lại cho rằng Thanh Thảo viết bằng Tân Hình Thức, và Thơ Sắp đặt. Truyện Chiếc Thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu có hai câu truyện lồng vào nhau tạo nên 3 chủ đề. Truyện được xây dựng bằng 6 tình huống liên tiếp nhau dẫn đến chủ đề, nhưng TS Chu Văn Sơn lại khẳng định Chiếc Thuyền ngoài xa chỉ có một cốt truyện và 1 tình huống [5]. Cũng vậy, truyện Một người Hà Nội của Nguyễn Khải có chủ đề là: Dù bão táp cách mạng có đánh bật rễ văn hóa Hà Nội, thì rồi bão táp sẽ qua đi, văn hóa Hà Nội vẫn bền vững. Giống như bà cô Hiền, suốt từ những năm kháng chiến chống pháp, rồi hòa bình lập lại, Hà Nội đánh tư sản, cô Hiền vẫn sống ung dung như tư sản ở Hà Nội. Kháng chiến chống Mỹ Hà Nội có 660 người con vào Nam chiến đấu, hòa bình trở về chỉ còn hơn bốn chục. Cô Hiền có hai con vẫn nguyên vẹn, thậm chí, lúc con về vào đến giữa nhà, cô cũng không nhận ra, cô tưởng là khách mua hang (vô tâm đến thế là cùng!). Suốt mấy chục năm Hà Nội chịu đựng bom đạn Mỹ, nhà cô Hiền tháng nào cũng tiệc tùng họp mặt những người thượng lưu trí thức…Nguyễn Khải muốn nói gì qua một nhân vật như thế? Đọc tùy bút Đi tìm cái tôi đã mất của Nguyễn Khải có thể hiểu thâm ý của tác giả. Nhưng sách hướng dẫn giáo viên lại không nói điều này.
Điều đáng nói là chương trình rất nặng nề và lạc hậu so với thời đại. Thí dụ, học sinh hôm nay không thể cảm nhận nổi Rừng Xà Nu vì truyện giả tạo. Đọc Mùa Lá rụng trong vườn học sinh thấy chán cách viết rườm rà kiểu nông dân “cà kê dê ngỗng”, và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm đã bị hiện thực qua rất xa. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa gây ra một tâm trạng nặng nề, u ám, vì vì sự cam chịu bạo hành của người đàn bà hàng chài…
Chương trình hầu như bỏ phần Lý luận văn học (Ở lớp 12 chỉ học sơ sài về Quá trình văn học và Phong cách nghệ thuật), thì sao có thể “có được một công chúng văn học có trình độ”?
Bây giờ Bộ giáo dục-Đào tạo đề ra mục tiêu dạy Ngữ Văn là “chú trọng việc rèn các kỹ năng, năng lực hành động, vận dụng kiến thức, tăng cường thực hành và gắn nỗi dung bài học với thực tiễn cuộc sống”. Đọc hiểu văn bản chỉ còn là một kỹ năng. Học sinh còn phải rèn luyện nhiều kỹ năng khác như kỹ năng tạo lập văn bản nói và văn bản viết, kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ, kỹ năng trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ khi phát biểu theo chủ đề…
Mọi phương pháp dạy Văn ở THPT đều phá sản khi nỗ lực của nhà trường và học sinh học chỉ để thi tốt nghiệp. Mãi vẫn là nhồi nhét, văn mẫu. Học sinh làm văn nghị luận xã hội chỉ là “chém gió”…
3.THÂN PHẬN TRÍ THỨC
GS-TS Trần Đình Sử đã có một cuộc đời trải nghiệm những biến cố lớn của lịch sử. Ông viết: “tôi đã cùng đội thiếu niên đánh trống cỗ vũ Cải cách ruộng đất, chứng kiến đấu và bắn địa chủ. Từng chứng kiến Nhân Văn Giai phẩm. Chứng kiến chiến tranh leo thang, phá hoại của Đế quốc Mĩ, Chứng kiến ngày thống nhất đất nước. Chứng kiến người anh em núi liền núi sông liền sông đánh giết đồng bào biên giới phía bắc nước ta. Chứng kiến và tham gia ngày đổi mới. Chứng kiến sự sụp đổ niềm tin rồi sụp đổ hoàn toàn của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa. Chứng kiến sự sụp đổ của hàng loạt nguyên lí văn học.”… tôi thấy giới trí thức Liên xô vào thời “tan băng” đã có một bộ phận đi tìm những con đường tiếp cận mới, trong đó có thi pháp học”[đd]
Là một trí thức ông không thể không bày tỏ thái độ trước những biến động lớn lao của lịch sử. Có thể là, giai đọan trước kia, sự thăng tiến của ông hanh thông, nên ông ít có những băn khoăn, hoài nghi. Năm 1962, ông được cử đi tu nghiệp tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Nam Khai (Trung Quốc). Năm 1966, về nước ông làm giảng viên Khoa Văn, Trường Đại học Vinh. Từ năm 1976 đến 1980, ông sang làm nghiên cứu sinh tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Ki-ép và bảo vệ luận án PTS tại Viện Văn học thuộc Viện Hàn lâm khoa học U-crai-na. Từ năm 1981, ông trở về làm giảng viên tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, và 10 năm tham gia soạn chương trình và sách giáo khoa PTTH của Bộ Giáo dục & Đào tạo.
Nhưng những năm gần đây, người ta thấy ông có nhiều “băn khoăn, hoài nghi” hơn. Và với tư cách nhà khoa học đầu ngành lý luận văn học ông không thể không lên tiếng. Ông dịch bài Ba loại phê bình xấu của Đinh Phàm để gián tiếp bày tỏ thái độ với hiện trạng phê bình ở Việt Nam: “Tất nhiên đây chỉ là mặt trái của môi trường sinh thái phê bình, nếu không vạch mặt chỉ tên thì di hại vô cùng.”
Trong bài Phê bình kiểm dịch ông lên tiếng: “Nhưng nhìn lại sản phẩm phát hiện của các vụ kiểm dịch om sòm trên văn đàn, ví như những bài báo của các tác giả thuộc nhóm Nhân Văn Giai phẩm, hoặc các bài báo của Trương Tửu, hay tác phẩm Sương tan của nhà văn Hoàng Tiến, tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không hiểu họ chống Đảng, đồi trụy ở chỗ nào?/
Phê bình kiểm dịch là một tồn tại khách quan. Nó cũng là phê bình chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Nhà nước rất hậu đãi loại phê bình kiểm dịch này. Các nhà phê bình kiểm dịch đầu đàn thường được trao nhiều giải thưởng cao quý. Nhưng rõ ràng, phê bình kiểm dịch không quan tâm tới tính nghệ thuật của văn học. Cho nên, tôi rất hoài nghi giá trị và ý nghĩa tồn tại của nó với tư cách là phê bình văn học đích thực./ Có thể nó cũng là một loại loại phê bình, nhưng không phải phê bình văn học.[6]
GS-TS Trần Đình Sử không nêu tên cụ thể những ai là “Các nhà phê bình kiểm dịch đầu đàn thường được trao nhiều giải thưởng cao quý”. Ông công nhận phê bình kiểm dịch “cũng là phê bình chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Nhà nước rất hậu đãi loại phê bình kiểm dịch này”nhưng ông không định danh được, hay ông không muốn nói ra mà chỉ lấp lửng: “Có thể nó cũng là một loại loại phê bình, nhưng không phải phê bình văn học”.
Tất nhiên là người đương thời có thể hiểu những đối tượng ông ám chỉ là ai. Về mặt văn bản, Trần Đình Sử ra vẻ khách quan khoa học khi nghiên cứu vấn đề, xong trong diễn ngôn, ông tỏ cay nghiệt với loại phê bình này. Mượn lời Voltaire (1694 – 1778), ông coi nhà phê bình kiểm dịch “cũng giống như người ta muốn kiểm tra các loại lợn đem ra thị trường có bệnh hay không, người ta đã thiết lập những người chuyên môn kiểm tra lưỡi lợn. Những người kiểm tra lưỡi lợn trong văn học không phát hiện được một nhà văn nào là lành mạnh cả”.
Tôi nghĩ đó là một đánh giá không khách quan. Nói cho đúng, những nhà phê bình mà Trần Đình Sử gọi là nhà phê bình kiểm dịch là những nhà phê bình chính trị, họ có nhiệm vụ bảo vệ chế độ. Ông với họ cùng đứng ở trung tâm quyền lực diễn ngôn, trong cùng một hệ thống, tuy có khác nhau về công việc, song vẫn chung một nhiệm vụ chính trị. Về những nhà phê bình chính trị, từ báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (1948) của Trường chinh đến Nghị quyết 23 của Bộ chính trị đều xác lập vị trí và nhiệm vụ của họ. Trường Chinh viết: “Không phải chỉ cần phê bình những khuynh hướng sai lầm về tư tưởng, học thuật, nghệ thuật của ta mà thôi; phải phê bình và nhất là chú trọng đả kích tư tưởng, văn học, nghệ thuật phản động của địch. Cuộc đấu tranh về văn hóa và tư tưởng không thể tách rời cuộc đấu tranh về chính trị, quân sự và kinh tế được”.
Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 23 cũng nói rõ: “Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học, nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài; đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm lăng văn hoá của các thế lực thù địch.”
Theo Chu Giang, bài Phê bình kiểm dịch là bài “ví von so sánh những người phê bình luận văn của Nhã Thuyên giống như việc làm của các nhân viên thú y ở ngoài chợ xem lưỡi lợn, nếu thấy có bệnh thì hô hoán lên cho mọi người đừng mua”, rằng: “Giáo sư Trần Đình Sử tỏ ra dạn dày kinh nghiệm văn bút khi bảo vệ Nhã Thuyên. Ông không đi thẳng vào nội dung luận văn mà chỉ đi xung quanh ‘bên lề’”.[7]
Có lẽ Chu Giang nói đến bài viết: “Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại” của Trần Đình Sử. [8] GS-TS Trần Đình Sử viết: “Về mặt văn hóa, khái niệm ngoại biên, lề chỉ bộ phận cộng sinh cùng văn hóa chính thống”; “M. Bakhtin quan niệm bản chất văn hóa nằm ở ngoại biên. Ngoại biên của ông trong tiếng Nga là granitxa (граница), có nghĩa là ranh giới, biên giới, lằn ranh, giáp ranh, đường biên, sự tiếp giáp, giáp giới”; “Toàn bộ văn hóa, văn học… đều tồn tại trên đường biên, đường ranh giới”; “Quan niệm về ranh giới của Bakhtin cho ta hiểu rằng, toàn bộ sức sống văn học, nghệ thuật nằm ở đường biên. Kìm giữ văn học, nghệ thuật ở trung tâm là kìm hãm sự phát triển, sinh sôi của chúng. Quan niệm này cũng cho thấy ngoại biên hóa là quy luật khách quan của nghệ thuật và lí thuyết, phê bình.”
Bài viết này GS-TS Trấn Đình Sử mượn lời Bakhtin để khẳng định rằng: “toàn bộ sức sống văn học, nghệ thuật nằm ở đường biên… ngoại biên hóa là quy luật khách quan của nghệ thuật và lí thuyết, phê bình.”, “Mọi sáng tác văn học ở trung tâm đều bắt nguồn từ ngoại biên”. Điều này gián tiếp khẳng định bằng học thuật lý thuyết trung tâm-ngoại vi, và thuyết về cái bên Lề, cái Khác của Nhã Thuyên là đúng. Nhã Thuyên dẫn Derrida, Foucault, khẳng định Sự trỗi dậy của cái bên lề - một hiện tượng có tính quy luật của vận động. Trong suốt Luận văn, Nhã Thuyên lặp lại rất nhiều lần tư tưởng này: Ngoại vi hóa là xu thế thời đại. “Nhìn trên diện rộng, giải trung tâm trong văn học Việt Nam cũng đồng nghĩa với quá trình ngoại vi hóa, hay ngoại vi hóa là để giải trung tâm văn học dòng chính, giải trung tâm cái chính thống”. Mà giải trung tâm, theo Nhã Thuyên, là “lật đổ” cái chính thống, cái trung tâm.
Có sự khác biệt đáng kể quan niệm về “đường biên, ngoại biên” của Bakhtin với khái niệm “ngoại vi- trung tâm” trong Giải cấu trúc của Derrida mà Nhã Thuyên vận dụng. Tôi không rõ GS-TS Trần Đình Sử có để ý điều này không? Vì GS-TS Trần Đình Sử không dùng Giải cấu trúc để đọc Luận văn Nhã Thuyên mà chỉ ở “ngoài lề”, ông không nhận ra diễn ngôn và thái độ diễn ngôn của Nhã Thuyên, đồng thời lý thuyết của Bakhtin có độ vênh đáng kể với thực tiễn văn học Việt Nam, thành ra, GS-TS Trần Đình Sử đã không “cứu” được Nhã Thuyên.
Có thể là GS-TS Trần Đình Sử biết có sự khác biệt giữa quan niệm của Bakhtin và Derrida, nhưng ông vẫn vận dụng Bakhtin, do một ẩn ý khác. Bakhtin là một tác giả lớn. Cuộc đời và tác phẩm ông bị vùi dập một thời gian dài. Bakhtin thể hiện mạnh mẽ khát vọng dân chủ, đối thoại, đa âm. GS-TS Trần Đình Sử học ở Bakhtin chăng? trong bài Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học ông đòi đặt lại tất cả vấn đề: “Giải cấu trúc đem lại một ý thức phản tư. Nó muốn soát xét lại tất cả, không trừ một chỗ nào, mọi nguyên lí, định lí, nguyên tắc, phương pháp, nhận định, khái niệm, làm rõ những điểm mù, tìm đến các khía cạnh mới, hợp lí. Giải cấu trúc đòi hỏi phải viết lại văn học sử, viết lại lí luận, đọc lại người trước với tinh thần khoa học, phát hiện mọi ngộ nhận, mọi thành kiến, phát hiện những nhận thức mới, chân lí mới, đưa người đọc vào những tìm tòi mới. [9]
Ông cho rằng Khái niệm phương pháp sáng tác trong lí luận phê bình văn học mác xít là nguỵ tạo[10]
Cần đưa khái niệm phương pháp sáng tác ra khỏi hệ thống lí luận phê bình văn học ở Việt Nam [11].
Ông phủ định quan điểm văn nghệ phục vụ chính trị: “xét về mặt lí thuyết, nói văn nghệ tòng thuộc chính trị, văn nghệ phục tùng chính trị là không đúng. Văn nghệ và chính trị là hai hình thái ý thức xã hội khác nhau thuộc thượng tầng kiến trúc, có chức năng vị trí khác nhau, tác động qua lị với nhau, không thể coi văn nghệ là một bộ phận (tòng thuộc) của chính trị, phục vụ chính trị được”;”Gọi văn nghệ là công cụ, vũ khí nói chung cũng không đúng.”[12] Ông cũng phê phán phê bình xã hội học Mác-xít: ”lí luận văn học Mác xít vì bản chất là xã hội học, tuy có đem lại một ít sinh khí, khí thế trong đấu tranh xã hội, nhưng nhìn chung đối với phê bình văn học nghệ thuật, một lĩnh vực thẩm mĩ, nó có rất nhiều hạn chế và khiếm khuyết. Trong điều kiện xã hội học mác xít độc tôn thì các khiếm khuyết ấy càng phát huy tác dụng tiêu cực”[13]
Nếu những diễn ngôn của ông là đúng, thì các nguyên lý văn học của Đảng là sai, và văn học xây dựng trên những nguyên tắc sai ấy (văn học 1975-1986) không thể đúng được, vậy làm sao có thể đánh giá “Với những thành tựu đã đạt được chủ yếu trong việc phản ánh hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, văn học, nghệ thuật nước ta xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học, nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay.”(Báo cáo chính trị Đại Hội Đảng lần thứ IV, 1976).
Tôi hiểu rằng ông chỉ muốn phủ định sự độc tôn của lý luận phê bình Mác-xít và muốn đổi mới lý luận phê bình ở Việt Nam. Ông khẳng định lý luận văn học Mác-xít ở Việt Nam “đã có tác dụng to lớn trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, đã hình thành một nền văn nghệ mới giàu sức chiến đấu, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng và đấu tranh thống nhất nước nhà”[14]. Thực tế là, làm sao ông phủ định được những tài năng của văn học 1945-1975 như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Quang Dũng, Hữu Loan, Chính Hữu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Xuân Quỳnh…
Thực ra ông cũng chỉ dám đưa ra những “băn khoăn, hoài nghi” khi Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị đã mở rộng tinh thần Nhân văn và dân chủ để tiếp cận với mọi thành tựu của nhân loại. Ông vẫn đứng ở trung tâm quyền lực chính trị và diễn ngôn. Ông không đứng ở ngoại vi, ở bên Lề, hoặc trên đường biên, đường ranh, càng không có ý định vượt qua “đường biên”. Đó là thái độ chọn lựa của ông, thái độ này khác với Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên). Nhã Thuyên chọn đứng về phía bên lề, đứng với người bên Lề để giải trung tâm, giải chính thống, để “lật đổ cái chính thống đã già cỗi, xơ cứng.”
Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đã đưa Việt Nam hội nhập với thế giới trong xu thế toàn cầu hóa. Tuy vậy, văn học Việt Nam và Lý luận văn học Việt Nam cũng chỉ mới ở chặng đầu. Đúng như GS-TS Trần Đình Sử nhận xét: “Sự đổi mới lí thuyết văn học thực ra chỉ mới bắt đầu. Hành trình này con gian nan”[2-đd]Bản thân ông cũng đã có những nỗ lực tiếp cận với những lý thuyết mới. Tôi đọc được những bài này trên trang bog cá nhân của ông: Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay, Bản chất xã hội, thẩm mĩ của diễn ngôn văn học, Bước ngoặt diễn ngôn và sự đổi thay hệ hình nghiên cứu văn học, Quan niệm diễn ngôn như là yếu tố siêu ngôn ngữ của nghiên cứu văn học, Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học, Tác phẩm văn học như là kí hiệu nghệ thuật, Tự sự học từ kinh điển đến hậu kinh điển. Văn học như là tư duy về cái khả nhiên…(*)
4.ĐÔI ĐIỀU NGHI NGẠI
Trong tọa đàm Trần Đình Sử trên đường biên của lí luận văn học” chiều 23/1/2015 do Khoa Viết văn báo chí, Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức, TS Nguyễn Xuân Diện thuật rằng, GS-TS Trần Đình Sử nói vui: “Tôi là một tội đồ đã reo rắc bao nhiêu sai lầm cho bao nhiêu thế hệ sinh viên học sinh. Tôi muốn làm một việc gì đó, để sửa sai cho mình, trước hết được nói ở trong cuốn sách này”. [15]
Tôi ngẫm nghĩ mãi về điều ông nói. Ông nói đùa hay ông nói thật lòng mình? Nếu ông nói đùa, thì đó là cách nói tự đề cao. Bởi nếu ông là một tội đồ đã reo rắc bao nhiêu sai lầm cho bao nhiêu thế hệ sinh viên học sinh thì sao Nhà Nước lại tặng giải thưởng cho ông, Quỹ Văn hóa Phan Chu Trinh lại tặng giải thưởng cho ông? Chẳng lẽ ông lại phụ lòng Nhà Nước và phụ lòng Quỹ Văn hoá Phan Chu Trinh có mục đích tôn vinh danh nhân văn hóa Việt Nam thời hiện đại?
Tôi nghĩ ông có “tâm sự”, và muốn chia sẻ tâm sự ấy với đồng nghiệp, với học trò của ông. Dĩ nhiên là đồng nghiệp và học trò ông không ai nỡ “bắt tội” ông, vì người ta biết rằng ông có quyền được sai.[16] Tôi nghĩ rằng, ông biết những gì ông nghiên cứu về lý luận văn học, về Thi pháp học đã bị lý luận văn học hiện đại vượt qua. Và bằng tư duy mở, ông cần phải nói để các thế hệ sau vượt lên. Dẫu thế nào, các công trình của ông đã ghi tên ông vào lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam. Ông nói thật tâm sự của mình, đó là điều phải lẽ của một nhà giáo, nhà nghiên cứu khoa học, của một người suốt hành trình trên con đường vạn dặm, đã suy gẫm, kiếm tìm chân lý nghệ thuật …
Tháng 4 năm 2017
______________________________
[1] Trò chuyện cùng Giáo sư Trần Đình Sử về đời và nghề
http://vietvan.vn/vi/bvct/id1374/Tro-chuyen-cung-Giao-su-Tran-Dinh-Su-ve-doi-va-nghe/
[2] Trần Đình Sử- Diễn từ nhận Giải văn hóa Phan Chu Trinh, hạng mục nghiên cứu cùa Quỹ Văn hóa Phan Chu Trinh. https://trandinhsu.wordpress.com/2017/03/29/dien-tu-nhan-giai-cua-quy-van-hoa-phan-chau-trinh-ngay-24-3-2017/
Xem thêm video: https://www.youtube.com/watch?v=X9xA8AiQ07k
[3] Xin đọc:
- Cao Thị Hồng: Trần Đình Sử với tiếp nhận thi pháp học hiện đại trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam
vandoanviet.blogspot.com/2015/01/tran-inh-su-voi-tiep-nhan-thi-phap-hoc.html
-Chu Văn Sơn: Trần Đình Sử và Thi Pháp học: khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
-Lã Nguyên: Một hướng nghiên cứu có triển vọng (về chuyên luận thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử)
https://languyensp.wordpress.com/2015/07/29/mot-huong-nghien-cuu-co-trien-vong-ve-chuyen-luan-thi-phap-tho-to-huu-cua-tran-dinh-su/
-Lã Nguyên: Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử và giới hạn của những cách đọc
http://vietvan.vn/vi/bvct/id2789/Thi-phap-Truyen-Kieu-cua-Tran-Dinh-Su-va-gioi-han-cua-nhung-cach-doc/
-Lã Nguyên: Trần Đình Sử và những đường biên khoa học
https://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tran-dinh-su-va-nhung-duong-bien-khoa-hoc
-Lã Nguyên: Việt Nam thế kỷ XX và những xu hướng lựa chọn tư tưởng văn nghệ nước ngoài
https://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/viet-nam-the-ky-xx-va-nhung-xu-huong-lua-chon-tu-tuong-van-nghe-nuoc-ngoai
-Lã Nguyên: Lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời hậu chiến
http://vanvn.net/tu-doi-vao-van/li-luanphe-binh-van-hoc-viet-nam-thoi-hau-chien/929
-Lã Nguyên: Sự tiếp nhận các lý thuyết hiện đại phương Tây từ 1986 đến nayhttps://languyensp.wordpress.com/2016/01/29/su-tiep-nhan-cac-li-thuyet-van-nghe-hien-dai-phuong-tay-tu-1986-den-nay/
-Văn Giá- Trần Đình Sử - người thồ chữ
http://tacphammoi.net/tran-dinh-su-nguoi-tho-chu_n5138.aspx
-Đỗ Minh Tuấn: Trần Đình Sử múa gươm dưới trời mưa
https://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tran-dinh-su-mua-guom-duoi-troi-mua
-Nguyễn Khắc Phi: Chân dung Nhà giáo tiêu biểu: GS.TS.NGND TRẦN ĐÌNH SỬ
http://hnue.edu.vn/Tintuc/Tonghopthongtin/tabid/260/news/402/ChandungNhagiaotieubieuGSTSNGNDTRANDINHSU.aspx
[4] http://tuanbaovannghetphcm.vn/su-trao-tro-cua-thi-phap/
[5] Xin đọc: Bùi Công Thuấn-TS Chu Văn Sơn và phê bình văn học
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/04/05/ts-chu-van-son-va-phe-binh-van-hoc/
[6] Trần Đình Sử-Phê bình kiểm dịch
https://trandinhsu.wordpress.com/2013/07/17/phe-binh-kiem-dich/
[7] Chu Giang- Luận chiến văn chương-quyển ba.Nxb Văn học 2015.tr. 57
[8] Trần Đình Sử- Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại
https://trandinhsu.wordpress.com/2013/07/28/ngoai-bien-hoa-trong-tien-trinh-van-hoc-viet-nam-duong-dai/
Đọc thêm Trần Đình Sử (cùng nội dung): Ngoại biên hóa diễn ngôn lí luận, phê bình và sáng tác trong tiến trình văn học đương đại Việt Nam- http://vietvan.vn/vi/bvct/id3612/Ngoai-bien-hoa-dien-ngon-li-luan,-phe-binh-va-sang-tac-trong-tien-trinh-van-hoc-duong-dai-Viet-Nam/
[9] https://trandinhsu.wordpress.com/2013/06/13/giai-cau-truc-va-chuyen-doi-hinh-thai-dien-ngon-trong-li-luan-phe-binh-van-hoc-trung-quoc/
[10] http://vietvan.vn/vi/bvct/id3310/Khai-niem-phuong-phap-sang-tac-trong-li-luan-phe-binh-van-hoc-mac-xit-la-nguy-tao/
[11] https://lythuyetvanhoc.wordpress.com/2012/07/22/tran-dinh-su-can-dua-khai-niem-phuong-phap-sang-tac-ra-khoi-he-thong-li-luan-phe-binh-van-hoc-o-viet-nam/
[12] https://trandinhsu.wordpress.com/2015/07/12/tiep-nhan-nguyen-li-van-nghe-phuc-vu-chinh-tri-o-viet-nam/
[13] https://trandinhsu.wordpress.com/2015/07/23/tiep-nhan-phuong-phap-luan-xa-hoi-hoc-mac-xit-trong-nghien-cuu-phe-binh-van-hoc-viet-nam-truoc-1986/
[14] Trần Đình Sử: Tiếp nhận lí luận văn nghệ Mác Lê nin ở Việt Nam giai đoạn 1945 – 1986
https://trandinhsu.wordpress.com/2015/05/10/tiep-nhan-li-luan-van-nghe-mac-leenin-o-viet-nam-giai-doan-1945-1986/
[*] https://trandinhsu.wordpress.com
[15] https://giangnamlangtu.wordpress.com/2015/01/25/tuong-thuat-toa-dam-tran-dinh-su-tren-duong-bien-cua-li-luan-van-hoc/
[16] Thụy Khuê chỉ ra chỗ sai của ông: Thụy Khuê-Phê bình văn học thế kỷ XX, chương 5, phần 2:
http://thuykhue.free.fr/PBVH/Chuong05-PheBinhPhanTam-2.html
-Chu Giang- Luận chiến văn chương quyển 3- Kiểm dịch Trần Đình Sử. Nxb Văn học 2015, tr. 57-81.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét