Thứ Ba, 19 tháng 12, 2017

TIỂU THUYẾT KHÔI VŨ


TIỂU THUYẾT KHÔI VŨ
Bùi Công Thuấn


(52 tác phẩm của Khôi Vũ)


Bến đời mơ thực (2016) là cuốn sách thứ 53 của nhà văn Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải. Trước đó Khôi Vũ đã in nhiều tiểu thuyết như: Người có một thời (1988), Giữa dòng đời (1989), Lời nguyền hai trăm năm (1989), Dòng sữa cây nước mắt (1990), Mặt trời của riêng ai? (1990), Triệu phú (1992), Ngọn lửa âm thầm (1993), Bay với đôi tay trần (2004), Cái bóng (2005), Những người nuôi lửa (2005), Phía sau một khách sạn (2006), Vỡ dần trong mắt (2009). Và sau 9 năm với 12 lần được bổ sung (15/5/2017), anh đã hoàn thành bản thảo tiểu thuyết Nguồn mạch. Cuốn sách lên đến 133.000 chữ, khoảng 500 trang in. Khôi Vũ cho biết: “Chưa biết có “Nhà” nào chịu in cho, cũng chưa biết hay dở thế nào, nhưng tự thấy hài lòng và hạnh phúc vì đã viết được một cuốn sách... “hết cốt”

1. TỪ LỜI NGUYỂN HAI TRĂM NĂM ĐẾN BẾN ĐỜI MƠ THỰC.

Tôi chưa có điều kiện đọc tất cả tiểu thuyết của nhà văn Khôi Vũ nên không thể có một cái nhìn bao quát. Tuy vậy, mỗi cuốn sách hé lộ một khía cạnh nào đó của bút pháp, phong cách và năng lực sáng tạo của tác giả. Tôi chọn Lời Nguyền Hai Trăm năm(1989), Vỡ dần trong mắt (2009) và Bến đời mơ thực (2016) để lần tìm những manh mối.

Trong cuốn Con ếch ngắm trăng (chưa xuất bản nhưng đã công bố một phần), Khôi Vũ cho biết: Trước Tết âm lịch năm 1989, vì ham vui, anh theo chân một phóng viên đài PTTH Đồng Nai đến Bà Rịa Vũng Tàu. Ở Long Hải, Khôi Vũ gặp Hai Sửu, tập đoàn trưởng tập đoàn đánh cá. Hai Sửu có biệt tài lặn xuống biển thăm dò luồng cá, nên được người ta gọi là Vua Biển. Khôi Vũ không ngờ rằng chuyến đi ấy cũng đã “tặng” anh một nguyên mẫu cho nhân vật chính của cuốn Lời nguyền hai trăm năm với hai chi tiết “đắt”: danh xưng Vua Biển và tài lặn xuống biển nghe luồng cá. Sau Tết âm lịch năm ấy Khôi Vũ được anh Chí Thiện, một phóng viên của báo Tiền Phong (TP HCM) “đặt hàng” qua sự giới thiệu của nhà thơ Cao Xuân Sơn.

Khi viết Lời nguyện hai trăm năm, Khôi Vũ kể: “Tôi chọn Hai Sửu là nguyên mẫu nhân vật chính cuốn sách của mình nhưng đổi tên thành Hai Thìn cho phù hợp với tài lặn biển (như rồng). Tôi chọn bối cảnh là rừng và biển Bình Châu (huyện Xuyên Mộc) vì nơi ấy tôi từng đi thực tế, từng vào rừng nghe bà già người Châu Ro trăm tuổi hát để ghi son-phe mấy bài hát của dân tộc ít người này, có thể đưa bà thành một nhân vật. Vì thế tôi “chuyển” Hai Thìn từ biển Long Hải qua biển Bình Châu và tôi đổi tên nơi đây thành “làng biển Cát”. Ở đây, về phía không gian rừng, tôi tự tin với nhân vật Tòng Út cùng chiếc đàn goong-kala mà tôi gọi là đàn ống tre. Tôi đã từng được tặng một chiếc đàn ống tre và biết sử dụng nó khá thành thạo, thậm chí còn sáng tác được một bài hát mang âm hưởng dân ca từ nó... Cứ thế, ngày qua ngày trong vòng gần ba tháng, tôi viết. Viết với sự hào hứng. “

Lời nguyện hai trăm năm ca ngợi người lao động làm giàu vào cái thời người kinh doanh còn bị gọi là con buôn với tất cả sự đố kỵ. Chủ đề tư tưởng, theo Khôi Vũ, là viết về tính thiện.

Làng biển Cát có ông tổ họ Lê theo Gia Long. Ông phò dưới trướng Lê Văn Duyệt. Khi Gia Long chiến thắng và tiến hành trả thù khắp nơi, họ Lê cũng nguyền trả thù cho gia huynh mình. Họ Lê đã bắt được và giết chết một cách dã man cha con họ Vũ, một viên tướng Tây Sơn. Trước khi bị chém làm hai mảnh, họ Vũ nguyền rằng, dòng họ Lê, “chỉ đến khi tuyệt tự mới hết kẻ ác tâm”. Sau đó hồn họ Vũ đầu thai vào nhà họ Lê để trả thù riêng. Lời nguyền ấy đã ứng nghiệm. Mỗi đời họ Lê muốn có con trai nối dòng đều phải làm một việc ác…Đến đời Hai Xung Phong, sau khi làm ác, y hối hận, từ bỏ gia đình đi tu, đổi tên là Thích Huệ Mẫn. Ông có một con trai, đặt tên là Lê Trung Hiếu.
Hiếu chính là Vua Biển Hai Thìn. Anh sống ở làng biển Cát. Sau giải phóng, anh bị cán bộ điạ phương ép đi kinh tế mới. Nhà cửa của anh bị chiếm đoạt. Một năm sau đó anh xin hồi cư. Lý do anh là dân biển. Anh bị cán bộ điạ phương là Năm Mộc, Sáu Thế, Năm Hường o ép đủ điều. Sau cùng nhờ người dân trung kiên như ông Bảy, bà Cả Mọi và ông Ba Tê, một đảng viên hưu trí đấu tranh mạnh mẽ, Hai Thìn được nhập lại hộ khẩu, làm ăn, trở nên giàu có, được cử làm đại biểu Hội đồng Nhân dân. Anh không có con trai, nhưng anh từ chối làm điều ác theo đề nghị của cha và sự sắp đặt của vợ. Hai Thìn đã yêu vợ nồng nàn trong đêm trước khi anh đi biển. Chuyến đi ấy thuyền Hai Thìn bị sóng thần đánh vỡ. 15 người đi biển chỉ còn Năm Mộc sống sót, 9 người mất tích. Trong đêm yêu đương sau cùng, Hai Thìn đã để laị trong bụng vợ một đưá con. Chị đã sinh một cháu trai, ước mơ tuyệt vời của vua biển.

Trong bản thảo gửi Chí Thiện, Khôi Vũ cho biết, lúc đầu tất cả các nhân vật đều chết. “Anh Thiện nói với tôi: ‘Ông cố gắng cho một ai đó sống sót có được không?’. Tôi trả lời để tôi suy nghĩ. Cuối cùng, tôi cho nhân vật Năm Mộc, kẻ đầy tính xấu được sống. Hai Thìn, nhân vật tôi yêu quý, tôi vẫn để cho chết vì anh ta đã có đứa con trai nối dõi. ‘Cái mầm thiện đã có, còn lo gì!’”

Có một khoảng cách rất xa từ chuyến đi Bà Rịa-Vũng Tàu của Khôi Vũ đến việc viết Lời nguyền hai trăm năm. Chỉ có thể giải thích bằng tài năng sáng tạo văn chương. Độc đáo nghệ thuật của Lời nguyền hai trăm năm là cấu trúc hai tuyến truyện song song ngược chiều. Đây là điều mới mẻ so với tiểu thuyết đương thời những năm sau 1975. Tài năng sáng tạo, hư cấu, kết nối mạch truyện từ thời Gia Long qua thời chống Pháp đến những ngày trước đổi mới (1986) chứng tỏ Khôi Vũ là một cây bút có khả năng viết tiểu thuyết sử thi, và là một nhà văn tự khẳng định bản lĩnh trong việc phản ánh hiện thực còn nhiều phức tạp sau 1975. Khôi Vũ cho biết, anh viết với sự hào hứng, nhưng cũng “viết với một... nỗi lo… rằng mình ca ngợi người lao động làm giàu liệu có được chấp nhận không?”.

Rất tiếc, Khôi Vũ còn có hai cuốn tiểu thuyết sử thi bị “đứt mạch” chưa thể viết tiếp. Anh kể: “Mặt trời của riêng ai? (1990) là tiểu thuyết sử thi với những nhân vật chính là thanh niên trí thức miền Nam, bắt đầu từ những năm sáu mươi và dừng lại ở tháng 4/1975. Trong ý định thì tôi sẽ viết tiếp số phận của các nhân vật trí thức miền Nam này sau giải phóng. Tập 2 là khoảng thời gian từ sau tháng 4/1975 đến năm 1990, khi Việt Nam đã bước vào đổi mới một thời gian. Tập 3 là thời gian sau 1991. Ý tưởng thì “lớn” như vậy nhưng đáng tiếc cho đến nay tôi vẫn chưa thể “nối mạch” được”.

Khi đã 50 tuổi, Khôi Vũ định tập trung viết một bộ “trường thiên tiểu thuyết”. Truyện kể “về cuộc đời một cô gái mười lăm tuổi từ năm 1954 đến khi trở thành một phụ nữ trên sáu mươi tuổi vào năm 2000, mà sự đau khổ đã khiến toàn bộ mái tóc của bà sớm bạc trắng. Chuyện về cuộc đời của nhân vật này được lồng trong bối cảnh lịch sử của miền Nam đất nước ta: thời đệ nhất Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm, thời của các tướng lĩnh làm chính trị và thời sau tháng 4/1975. Tôi đặt nhan đề chung cho bộ truyện là “Tóc trắng” và viết theo kiểu chương hồi, trước mỗi chương là một đoạn lời kể của người phụ nữ tóc trắng, tiếp đó mới là phần kể hoặc tả của tác giả theo thứ tự thời gian… Trong suy nghĩ của tôi,”Tóc trắng” phải dài ít nhất 3 cuốn, mỗi cuốn khoảng trên dưới 300 trang in, thì việc in ấn không phải dễ. Vì vậy, trước hết phải viết cho xong đã rồi tính gì thì tính...Ba tháng, tôi viết được 100 trang vi tính, hết phần 1. Tiếc là số phận không chiều lòng tôi. Bộ “Tóc trắng” đến tận năm nay, tức mười mấy năm sau, vẫn còn dừng ở ba chữ ‘Hết phần 1’.”(Con ếch ngắm trăng-đd).

Như vậy có thể coi Lời nguyền hai trăm năm là một tiểu thuyết sử thi tiêu biểu của Khôi Vũ. Tác phẩm này tiếp tục dòng chảy sử thi trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975, nhưng với những nguồn mạch mới. Lời nguyền hai trăm năm chảy liền một mạch 200 năm từ thời Gia Long đến trước thời kỳ đổi mới (1986)

Hai mươi năm sau, Khôi Vũ ghi một cột mốc tiểu thuyết khác là tiểu thuyết“Vỡ dần trong mắt. Khôi Vũ “kể chuyện ‘vỡ mộng’ của một anh nhạc sĩ với thủ trưởng của mình, vốn là thần tượng của anh trước đó. Cuốn sách này tôi khai thác hầu như triệt để vốn ‘mổ mắt’ của mình, đặc biệt là ‘cuộc đời’ của cái bọt bóng khí trong mắt từ lúc nó xuất hiện đến khi tan biến. Cái bọt bóng khí trong mắt sau mổ này, tôi tin là chỉ có người nào mổ võng mạc mới có, mới biết chứ khó mà tưởng tượng ra.”(Con ếch ngắm trăng-đd).
Vỡ dần trong mắt cũng có một cấu trúc song song tạo nên tính tư tưởng cuả
truyện. Đó là câu chuyện về sự tan dần cuả bọt bong bóng trong mắt nhân vật Tôi, và mức độ trầm trọng ngày càng tăng lên đối với số phận anh Trần. Hai cấu trúc này gặp nhau ở cuối truyện. Khi bọt bóng tan, Tôi hết ảo tưởng về anh Trần. Trong Vỡ dần trong mắt, Khôi Vũ miêu tả nhiều giấc mơ (5 lần) của nhân vật Tôi. Tôi mơ thấy Lam. Và Lam chỉ xuất hiện trong giấc mơ cuả Tôi. Lam là nhân vật có nhiều bộ mặt: trẻ em nghèo nhặt cá, trẻ em trong chiến tranh nghịch ngợm súng đạn, một hướng dẫn viên du lịch trong những công ty lưà, một tay cơ hội giỏi tâng bốc trong những trò quảng cáo và sau cùng hoá thân trong vị bác sĩ từ nghèo khó phấn đấu thành tài. Nhân vật Tôi không lý giải được sự hiện diện cuả Lam. Có thể coi Lam là một kiểu nhân vật “lạ” của Khôi Vũ với nhiều ẩn nghĩa tư tưởng và nghệ thuật.
Kết nối mạch sáng tác của Khôi Vũ từ Lời nguyền hai trăm năm qua Vỡ dần trong mắt đến Bến đời mơ thực (hành trình 27 năm sáng tạo), người đọc có thể nhận ra một vài đặc điểm nghệ thuật của Khôi Vũ.
Khôi Vũ có nhiều nỗ lực cách tân nghệ thuật tiểu thuyết, rõ nhất là ở cấu trúc truyện song song ngược chiều trong Lời Nguyền hai trăm năm. Cho đến nay, kiểu cấu trúc này vẫn giữ nguyên giá trị. TS Hà Thanh Vân (Khoa Ngữ văn, Đại học Thủ Dầu Một) nhận xét: “Lời nguyền hai trăm năm là tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà văn Khôi Vũ trong mấy chục năm cầm bút.”[1]
Lời nguyền hai trăm năm được trao giải Hội Nhà Văn còn vì là một tác phẩm viết thành công về dân tộc ít người với những số phận và màu sắc văn hóa gây được ấn tượng.

Ngày nay có nhiều nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử và Khôi Vũ là một nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử khá sớm. (truyện ngắn Kiếm Sắc –Nguyễn Huy Thiệp [1988], tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh [1999], tiểu thuyết Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải [2003], tiểu thuyết Sương mù tháng giêng của Uông Triều [2015]…).
Tiểu thuyết Khôi Vũ viết về hiện thực xã hội miền Nam, nhiều cuốn lấy bối cảnh Đồng Nai. Nếu tổng hợp truyện ngắn và tiểu thuyết Khôi Vũ, người đọc sẽ thấy bức tranh xã hội miền Nam thật rộng lớn (trong truyện ngắn, Khôi Vũ viết áp sát những vấn đề thời sự). Góc nhìn của Khôi Vũ là góc nhìn của nhân dân, nên truyện của anh gần gũi với bạn đọc. Tạng của anh không phải là cây bút viết những truyện “gây hấn”, nên dù có đề cập đến những vấn đề xã hội bức xúc, ngòi bút Khôi Vũ vẫn hiền lành. Anh đã rút được nhiều kinh nghiệm, chẳng hạn chuyện bị gây khó từ cuốn Chuyện ở dãy phố năm căn. Gần đây anh viết truyện ngắn Xót xa sông lên tiếng về việc người ta đổ đất lấp sông Biên Hòa gây nên bao bức xúc trong dân. Với tư cách là nhà văn, một người con của Biên Hòa, Khôi Vũ không thể im lặng, nhưng anh viết rất “khôn ngoan”.
Khôi Vũ hướng về đối tượng độc giả thị trường, và giữ được sự mến mộ của độc giả mấy thập kỷ qua. Đó là một thành công mà không nhiều nhà văn đạt được. Có thể nói việc “ra dân”(xin thôi việc ở cơ quan Nhà nước) của anh chính là để lăn mình vào văn chương thị trường. Sức viết của Khôi Vũ thật dồi dào, gần như anh in sách liên tục trong nhiều năm ở cả ba thể loại truyện ngắn, truyện dài và truyện thiếu nhi. Anh còn viết sách đặt hàng cho Đồng Nai, viết về du lịch…

Khôi Vũ viết văn chương thị trường, song vẫn giữ ngòi bút của người làm văn chương đích thực, tức là sự sáng tạo cái đẹp, giữ gìn văn hóa và góp phần làm cuộc sống tốt đẹp hơn lên…

Cũng nhìn trong mạch tiểu thuyết từ Lời nguyền hai trăm năm đến Bến đời mơ thực, có những vấn đề tôi chưa thể lý giải được.
Đó là sự giảm dần dung lượng hiện thực trong nội dung tác phẩm. Vỡ dần trong mắt không còn chất “sử thi”đậm đặc, như Lời nguyên hai trăm năm. Dù vậy tác phẩm vẫn còn gắn với nội dung về đấu tranh chống cái tiêu cực của cuộc sống. Trái lại Bến đời mơ thực thu gọn lại chỉ là chuyện của ba nhân vật ở khu nhà trọ Lão Sao. Tuyệt nhiên không còn bóng dáng sử thi hay bóng dáng hiện thực những đấu tranh xã hội. Sự nổi trội của tác phẩm là miêu tả “cái bi kịch” cá nhân trong bối cảnh đời thường. Mạch truyện chậm, không có một cốt truyện chặt nên giảm hẳn sức hấp dẫn. Các nhân vật trôi đi trong thời gian với những việc hàng ngày: gặp gỡ, ăn uống trao đổi về những vấn đề của nhau trong sự quan tâm hàng xóm. Hình như họ xa lạ với dòng đời đang ào ạt hội nhập toàn cầu hóa ngoài kia. Truyện không đặt ra được bất cứ vấn đề xã hội cấp thiết nào, chỉ có vài chi tiết về cá nhiễm độc chết và cát tặc gây ra dòng xoáy dòng làm lở bờ sông.
Vỡ dần trong mắt kế thừa cấu trúc song song của Lời nguyền hai trăm năm và mở ra cách viết nhiều giấc mơ trong Bến đời mơ thực. Tuy nhiên cốt truyện của Vỡ dần trong mắt không hấp dẫn bằng Lời nguyên hai trăm năm, và những giấc mơ trong Bến đời mơ thực “rối” hơn, thần thoại hơn sơ với những giấc mơ không thể phân tâm trong Vỡ dần trong mắt. (Xin đọc bài BCT viết về Bến đời mơ thực). Ở một góc nhìn khác, tính “tư tưởng” của tác phẩm cũng giảm dần giữa ba tác phẩm này.
Tôi không rõ đây là sự chuyển đổi bút pháp hay là sự “xuống tay” của Khôi Vũ, dẫu biết rằng không nhà văn nào vượt được chính mình trong suốt chặng đường sáng tạo.

2. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA SÁNG TẠO

Đã có lúc Khôi Vũ tự đặt vấn đề với chính mình: “Đi 3 nước châu Âu trong 2 tuần lễ về đã hơn tháng, trong mình đầy ắp những câu chuyện, hình ảnh... Nhưng vẫn chưa viết gì. Kể cả khi bạn bảo "Viết cái gì đi, tôi in báo cho", mình cũng lần lữa hẹn. Nghỉ ngơi sau chuyến đi dài thì đã đủ rồi. Nhưng mình vẫn còn đang nghĩ... “Khôi Vũ nghĩ gì? “Kể chuyện thì dễ thôi. Khó là kể những gì, kể để làm gì? Có khi nghĩ mãi không ra cũng nên...”.(FB Nguyễn Thái Hải 12.06.2017)

Trước kia anh viết ào ạt, viết đầy cảm hứng, sách in liên tục. Lý do cụ thể là, anh kể: “Năm 1991, tỉnh Đồng Nai triển khai thực hiện Chỉ thị 01 của ông phó thủ tướng Nguyễn Khánh. Chỉ thị này quy định các Hội phải tự lực tài chính để hoạt động. Tôi mới qua tuổi bốn mươi. Phải tìm một việc gì đó để làm. Rất có thể một lúc nào đó tôi sẽ trở lại với nghề Dược, nhưng trước mắt phải viết đề kiếm... nhuận bút mà sống cái đã.”; Vâng, viết văn cũng là một nghề, và sống được bằng nhuận bút không phải nhà văn Việt Nam nào cũng đạt được.
Trước kia, khi “thời” của anh đến, anh gặp nhiều may mắn, nhờ thế, có động lực, tài năng được phát huy. Viết xong anh gửi ngay cho nhà in, có cuốn cùng lúc được cả hai nhà xuất bản in, có năm in hai, ba cuốn. Làm gì cũng phải có thời. Người viết văn cần có tài, có thời và có dũng khí, Khôi Vũ đã “tri thiên mệnh” về sự chọn lựa con đường của mình. Và đây là “thời” của anh: “Thật bất ngờ, vào dịp cuối năm 1986, tôi nhận được thông báo từ nhà xuất bản Tác Phẩm Mới rằng “Người có một thời” sẽ được in ở đó vào năm 1987. Thế là chỉ một năm 1987, tôi có đến hai cuốn sách được in ở hai nhà xuất bản, một trong Nam, một ngoài Bắc. Với tôi ngày ấy, quả không còn gì vui hơn! Chưa hết, nhà xuất bản Văn Nghệ ở TP Hồ Chí Minh còn hỏi tôi có cuốn “dài” nào khác thì đưa họ in cho. Trời ạ! Tôi đang định viết một cuốn về “đời thường”. Tổ đãi tôi rồi!

Trước kia, khi còn trẻ, Khôi Vũ lăn vào cuộc đời kể trải nghiệm, để có vốn sống, anh có cơ hội tiếp cận được với nhiều loại người, và nhiều trong số họ trở thành nguyên mẫu cho nhân vật của anh. Vốn sống dồi dào nên Khôi Vũ viết thật dễ dàng. Khôi Vũ kể về việc tìm và sử dụng vốn sống trong sáng tác của anh như sau:

Thời kỳ anh trở thành REP (Trình dược viên) của CIBA. “dường như thời gian ba năm đã vừa đủ cho tôi tích lũy được một vốn sống về người trí thức đi làm việc cho Công ty nước ngoài ở Việt Nam. Ngoài ra, tôi cũng ngẫu nhiên có được một vốn sống về hoạt động của các khách sạn cả bề ngoài lẫn thực sự bên trong. Sau này, năm 2006, tôi in cuốn truyện vừa “Phía sau một khách sạn” được viết với vốn sống “được tặng thêm”…

Tôi đã chấm dứt thời gian đi tìm vốn sống ở một công ty nước ngoài từ đó. Ít ai biết tôi lại đang âm thầm tìm vốn sống mới tại báo Lao Động Đồng Nai, nơi tôi sẽ có điều kiện tiếp xúc nhiều với giới công nhân và các công ty, xí nghiệp sản xuất trong tỉnh Đồng Nai
Vốn sống thời gian làm báo Lao Động Đồng Nai bây giờ mới được tôi huy động để viết. Tập truyện ngắn “Bên kia dãy điệp vàng” gồm toàn bộ truyện viết về công nghiệp, công nhân. Tiểu thuyết “Cái bóng” thì viết về chuyện nhân sự trong một nhà máy.(Con ếch ngắm trăng-đd).
Cả một cuốn “Dòng sữa cây nước mắt” đầy ắp vốn sống và đời người mà tôi ghi nhận được sau những lần đi viết và ở lại nhiều ngày trong vùng cao su Long Khánh

Viết “Đất sóng”, tôi dựa vào cuộc đời của gia đình một người bạn sau tháng 4/1975. Anh bạn, tôi không lấy làm nguyên mẫu mà chọn cô em gái của anh để xây dựng nhân vật chính. Một số sự việc trong truyện là có thực và tôi từng tham gia. Không gian là vùng đất gần nhà tôi nên tôi rất thông thuộc. Lần đầu tiên tôi đưa vào truyện những câu ca của người dân tộc đã được “cải biên” lại cho phù hợp nhưng vẫn giữ đúng ý tứ nội dung. (Thủ thuật này, tôi còn sử dụng trong một số sáng tác sau này, trong đó có tiểu thuyết “Lời nguyền hai trăm năm”). Về nhan đề của truyện, tôi đã được “trời cho” từ một chuyến đi thực tế. Chuyến đi ấy chỉ có hai người là tôi và Đàm Chu Văn khi cả hai đang là phóng viên báo Văn Nghệ Đồng Nai. Lần ấy chúng tôi đạp xe đạp đi tìm tổ hợp trồng sả của một người quen nằm trong khu đất đồi giáp vùng Hố Nai. Là đất đồi nên đường đi khi lên dốc, lúc xuống dốc, đạp xe bở hơi tai. Cái hình ảnh đất nhấp nhô như sóng hiện ra trong tôi cho đến khi viết truyện dự thi năm 1985, nó đã hiện ra như một hình ảnh “đắt” cho cuộc đời đầy sóng gió của nhân vật chính.

Vùng đất sóng đầy ấn tượng trong tôi ấy sau này còn là không gian chính của tiểu thuyết “Những người nuôi lửa” (Giải thưởng văn học nghệ thuật Trịnh Hoài Đức tỉnh Đồng Nai lần thứ 2 – Loại A văn xuôi).

“Ngọn lửa âm thầm” viết về ngành giáo dục với nhân vật chính là một cô giáo dạy học ở một vùng xa. Câu chuyện được ghép với một chuyện tiêu cực về rừng và chuyện làm báo. Đúng là việc tiếp cận với thời sự hàng ngày đã ảnh hưởng đến tôi khi viết cuốn sách này. Thứ nhất, tôi đang làm báo. Thứ nhì, chuyện phá rừng đang là thời sự nóng lúc ấy. Thứ ba, ngành giáo dục là ngành mà báo Lao Động Đồng Nai nơi tôi làm việc có mối quan hệ khá thân thiết. Trong nội dung sách, tôi khai thác khá kỹ vốn sống của mình về vùng đất trồng mía và các khu đất đồi của huyện Vĩnh Cửu. Tôi cũng đưa vào những câu chuyện tạm gọi là “cổ tích” giải thích sự hình thành của vùng đất, thông qua những “câu chuyện dưới cờ” của cô giáo nhân vật chính.”
Sống sôi nổi, viết ào ạt và thành công nối tiếp thành công, tại sao bây giờ Khôi Vũ lại đặt câu hỏi về bản thể của sự viết?
“Kể chuyện thì dễ thôi. Khó là kể những gì, kể để làm gì? Có khi nghĩ mãi không ra cũng nên...”.
Có lẽ sau bao nhiêu cuốn sách anh đã viết, thời gian qua đi, anh không biết cuốn nào sẽ sống với đời, góp phần vào bộ mặt văn hóa thời đại, góp phần vào sự phát triển văn chương Việt Nam đương đại? Cho nên anh tự hỏi “Kể để làm gì?”. Nhà văn nào không có khát vọng để lại tác phẩm cho đời? Nghĩa là nếu định vị chỗ đứng của anh trong dòng chảy văn học của thời đại, Khôi Vũ có vị trí nào, khuôn mặt văn chương của Khôi Vũ (phong cách) có những nét riêng độc đáo nào, và ngòi bút Khôi Vũ đã mở ra cách viết mới nào cho những người đi sau? Hình như cho đến nay chưa có công trình văn học sử nào nghiên cứu đầy đủ về văn chương Khôi Vũ (?) ngoài một số luận văn của nghiên cứu sinh. Trên văn đàn mấy chục năm qua, Khôi Vũ không gây được ấn tượng góp phần thúc đẩy sự phát triển của văn học như nhiều nhà văn khác. Anh là nhà văn “hiền lành”, cần cù viết, không gây ồn ào. Và nếu anh cứ kể truyện như thế, đã kể mấy chục cuốn rồi, thì “Kể để làm gì?”

Ngòi bút Khôi Vũ hướng về thị trường, anh hiểu và nắm bắt thị trường. Chẳng hạn, sau khi in Chuyện ở dãy phố năm căn và Người có một thời [1987], Khôi Vũ nhận định thị trường: “Từ đây, tôi bắt đầu có suy nghĩ thêm về việc cần chọn lựa nhân vật để viết “dài”. Hai cuốn “dài” được in của tôi đều có nhân vật sinh sống ở miền Nam. Đây là những mẫu người mà tôi quen thuộc, có thể kể, tả, thoải mái và đầy tự tin. Mặt khác, “họ” lại “xa lạ” với một bộ phận bạn đọc phía Bắc, trong đó gồm cả các nhà văn có trách nhiệm xuất bản! Vừa khai thác được thế mạnh của mình, vừa đáp ứng được nhu cầu của người đọc, há chẳng “một công đôi việc” sao! “. Nhưng sang thế kỷ XXI, độc giả thị trường đã là một thế hệ khác, với những vấn đề khác, tâm lý đọc sách cũng khác. Viết như Bến đời mơ thực không thể đáp ứng đối tượng độc giả thế hệ truyền thông đa phương tiện, với smartphone và Internet này. Bến đời mơ thực dành cho người già, đã thoát khỏi lối sống ồng ào, sống chậm, đọc chậm, nhẹ nhàng vui vẻ và có hậu. Cái khó của Khôi Vũ, theo tôi, là anh đã có một khoảng cách đối với công chúng trẻ của văn chương thị trường hôm nay, và anh muốn vượt lên những gì đã đạt được.

Cái khó còn xuất phát từ bút pháp. Khôi Vũ đã bám quá chặt vào việc đi tìm và khai thác vốn sống để huy động vào viết văn. Bây giờ (2017) anh đã 67 tuổi, tuổi tác không còn cho phép anh thâm nhập vào những vùng hiện thực gai góc, tôi không hiểu anh sẽ đi tìm “vốn” thế nào để tiếp tục hành trình anh đã chọn? Đọc những truyện ngắn gần đây Khôi Vũ lấy chính mình và gia đình làm nguyên mẫu như: Đời thường (Tuổi Trẻ cuối tuần 10.01.2016), Lạc giữa vùng quá khứ (Tuổi trẻ cuối tuần ngày 03.12.2017)… tôi băn khoăn. Những truyện quá đơn giản như thế chỉ có thể đăng báo mà không để lại dấu vết gì của sự thăng tiến nghệ thuật văn chương.

Và đây mới là nguyên nhân chính, Khôi Vũ tự đánh giá văn chương của anh: “Nhiều năm sau đọc lại, tôi nhìn ra chất “kể” nhiều hơn chất “tả” trong sách, phần “truyện” nổi rõ hơn phần “tư tưởng”. Mà như thế, gọi là “tiểu thuyết” có lẽ đã thậm xưng!” Vâng, tôi đồng ý với Khôi Vũ, thiếu một hệ tư tưởng triết học làm bệ đỡ thì những điều miêu tả chỉ là hiện tượng, mọi hiện tượng đời sống sẽ trôi qua rất nhanh. Bây giờ đọc lại những truyện anh viết trước kia về hiện thực của một vùng nào đó, chẳng hạn những truyện trong cuốn Già lửa, người đọc sẽ không còn thấy hấp dẫn, bởi truyện chỉ được viết để ”phản ánh hiện thực” với thái độ ngợi ca, và hiện thực ấy nay đã thành cổ tích.

3. “KỂ ĐỂ LÀM GÌ?

Câu hỏi này anh đã tự trả lời rồi.
Viết, trước tiên là thỏa mãn nỗi đam mê của mình. Việc anh bỏ làm Công ty dược, bỏ các công việc hành chính ở Hội VHNT Đồng Nai để chuyên tâm viết, đó chính là nỗi đam mê làm nên nhiều tác phẩm của Khôi Vũ. Khi hoàn thành bản thảo tiểu thuyết Nguồn mạch, Khôi Vũ cho biết: “Chưa biết có “Nhà” nào chịu in cho, cũng chưa biết hay dở thế nào, nhưng tự thấy hài lòng và hạnh phúc vì đã viết được một cuốn sách... “hết cốt”. Đây là tâm trạng Khôi Vũ những năm sau 1975: “điều canh cánh trong lòng tôi vẫn là việc sáng tác! Tính từ năm 1975 đến 1981 là 6 năm tôi không có sáng tác nào in ấn trên báo. Tôi cũng không viết gì dù chỉ viết rồi để đó. Tôi đọc báo, chờ một văn bản gì đó về các tác giả trước 1975 nhưng chẳng thấy gì. Một hai cuốn sách được in dạo đó nói về làng văn Sài Gòn cũ thì toàn là lên án, bêu xấu các tác giả. Tên tôi không thấy ai nêu ra có lẽ vì tôi chỉ viết cho thiếu nhi.”

Kể để làm gì? Ít ra có lúc những truyện anh kể đã đem lại nhuận bút, góp thêm vào thu nhập đời sống của anh. Ấy là lúc: “Trở lại với cuộc sống bình thường cùng gia đình từ đầu năm 1978 và sau 5 tháng cùng cha già đi làm rẫy mì ở cách nhà hơn chục cây số, rồi nuôi heo thịt sau nhà, tôi được nhận vào làm việc tại Công ty Dược phẩm cấp II tỉnh Đồng Nai từ tháng 6.1978…”.
Kể để làm gì? Ở Đồng Nai, viết về con người và đất nước Đồng Nai, chỉ có 3 người: Nhà văn Lý Văn Sâm, nhà văn Hoàng Văn Bổn và Khôi Vũ. Anh đang “nung nấu hoàn thành bộ sách về Đồng Nai để tự mừng tuổi 70 (vào năm 2020), Tập ký "Theo dòng chảy Đồng Nai" đã in đầu năm 2016, cũng phải kể đến tập truyện ngắn Đàn ống tre bên kia sông. 2012). Nhà thơ Lê Huy Mậu nhận xét: “hàng loạt cuốn tiểu thuyết sau đó viết về đề tài công nghiệp, về giáo dục, về văn hóa, về ẩm thực… cho thấy Khôi Vũ phong phú và thạo thuộc con người và đời sống vùng đất Trấn Biên - Biên Hòa - Đồng Nai cỡ nào.”[2] Người ta phải công nhận rằng những tác phẩm của Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn và Khôi Vũ đã góp phần vào đời sống văn hóa, sinh hoạt tinh thần của Đồng Nai. Nhà văn trẻ Đồng Nai ai sẽ là người tiếp bước? Có một khoảng cách khá xa và những khoảng trống không thể lấp đầy.

Kể để làm gì? Viết văn cũng là quyền lên tiếng nói. Quyền lên tiếng nói là một quyền thiêng liêng. Lên tiếng nói để bảo vệ và khẳng định cái thiện (Lời nguyền hai tram năm). Lên tiếng nói để cổ vũ cái đúng, cái tốt (Những người nuôi lửa) cái nhân văn. Khôi Vũ đã từng khẳng định: “Khi viết, tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng mình viết văn, dựa vào những nguyên mẫu ngoài đời mà viết, tô vẽ cho họ số phận ngày một tốt đẹp hơn”. Lên tiếng nói trước mọi hiện tượng đời sống để bảo vệ quyền sống của con người (Thí dụ, quyền sống của Gió và Mây trong Bến đời mơ thực)…

Nhà văn là người lên tiếng nói thay cho mọi người. Người nông dân dưới ruộng sâu, người công nhân trong công trường, nhà máy, những con người dưới đáy xã hội nữa, họ không thể sáng tác văn chương, nhà văn phải nói thay cho họ, bởi nếu không, đám “dân đen” ấy mãi mãi sống trong câm lặng, tăm tối. Và bởi chính họ mới làm nên cuộc sống, làm nên văn chương. Điều này thì tác phẩm của Nam Cao, của Anh Đức, của Nguyễn Ngọc Tư là những câu trả lời thuyết phục.

Kể để làm gì? Trẻ con Việt Nam lớn lên bằng ca dao, cổ tích. Những tác phẩm dân gian ấy làm nên một phần tính cách và bản sắc Việt nam. Nhà văn là người kể tiếp những chuyện dân gian ấy. Tôi nghĩ, những tập truyện ngắn, truyền dài cho thiếu nhi của Khôi Vũ là một tài sản giá trị cho cộng đồng.

Kể để làm gì? Nhà văn là người thư ký trung thành của của thời đại. Balzac đã viết văn chương với quan điểm ấy, và giá trị tác phẩm của Balzac cũng đặt trên nền tảng ấy. Khôi Vũ cũng ghi lại cái thời mình đã sống: Người có một thời” kể lại chuyện đời của một người lao động bình thường ở Sài Gòn, trôi dạt về Biên Hòa đi làm thuê rồi trở thành một nhà thầu rác Mỹ. Cuộc đời tiếp tục đưa anh ta đến với cuộc sống của giới thượng lưu, rồi tình cờ có mối quan hệ với một phu nhân quan chức. Sau tết Mậu Thân 1968, số phận phũ phàng quăng anh ta trở lại kiếp nhọc nhằn, tệ hơn, thành một người không còn tỉnh trí! Viết “Người có một thời”, tôi huy động được nhiều vốn sống vào trang sách. Đó là chuyện làm đại lý bia, nước ngọt của gia đình tôi, là nguyên mẫu một nhà thầu rác Mỹ từng là người giúp việc trong gia đình tôi, là mấy câu chuyện kể về nếp sống Mỹ của một người bạn học từng có một năm học trung học và sống trong một gia đình người Mỹ,...

Điều này Khôi Vũ ý thức rõ. Các tác phẩm văn học miền Bắc không có được phần hiện thực của miền Nam thời đất nước còn chia cắt, và như thế Khôi Vũ đã góp phần làm đầy đặn hơn những đường nét khuôn mặt thời đại của một dân tộc trong một thời khốc liệt của lịch sử. Điều ấy không quý sao?

Tôi xin mượn lời nhà văn Trần Đức Tiến chia sẻ với Khôi Vũ để tạm kết cho bài viết này: [3]
“Qua tuổi năm mươi, Khôi Vũ và tôi đã có thể nhẹ nhõm nói ra với nhau bằng cái giọng có đến 80% tinh thần đầu hàng: cứ cố làm hết sức, còn được chừng nào là do Trời.

Trên đời có lẽ chẳng có cái nghề nào như nghề viết văn, phụ thuộc vào Trời nhiều đến thế. Nhưng cũng phải. Cái còn lại của văn chương không nhìn thấy, không sờ thấy, không ngửi thấy như cái còn lại của nhiều nghề khác.

Văn chương do con người làm ra, lại vuột khỏi tầm kiểm soát của con người. Nói trời cho mới có văn hay, hồn văn thoát ra xác chữ để sống lâu với đời, là ở cái nghĩa đó.”

Tháng 12.2017

___________________________

[1] Ts Hà Thanh Vân: Diện mạo của văn học Đông Nam Bộ từ 1975 đến nay
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/6286-di%E1%BB%87n-m%E1%BA%A1o-c%E1%BB%A7a-v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-%C4%91%C3%B4ng-nam-b%E1%BB%99-t%E1%BB%AB-1975-%C4%91%E1%BA%BFn-nay.html
[2]Lê Huy Mậu: Khôi Vũ-Như con thuyền chăn song
http://vannghebrvt.com/post/khoi-vu-nhu-con-thuyen-chan-song
[3] Trần Đức Tiến: Khôi Vũ-Vỡ dần trong mắt
https://www.tienphong.vn/van-nghe/khoi-vu-vo-dan-trong-mat-121080.tpo

Thứ Năm, 15 tháng 6, 2017

THÂN PHẬN PHÊ BÌNH

Phê bình văn học-Diện mạo của một thời

THÂN PHẬN PHÊ BÌNH
(Thay lời bạt)

Bùi Công Thuấn




Phê bình văn học cũng như sáng tác, đều là công việc sáng tạo tốn nhiều công sức và tâm huyết. Tác phẩm văn học và tác phẩm phê bình cũng có những số phận. Nhưng thân phận nhà phê bình hẩm hiu hơn nhiều so với nhà thơ, nhà văn. Tác phẩm phê bình còn chịu số phận rẻ rúng nhiều hơn nữa. Biết thở than với ai!

MỘT BẢN TIN

http://trannhuong.net/danh-muc-8/bau-ban-gop-co-phan-trang-1.vhtm

Ngày Tiêu đề Tác giả Lượt xem
4/5/2017 NGUYỄN TRỌNG TẠO, MỘT CÂY SI VỚI MỘT CÂY BỒ ĐỀ Nguyễn Đức Tùng 133
4/2/2017 THẾ NÀO LÀ "LỖI ĐIỀU HÀNH"? Xuân Dương 303
4/1/2017 MONG LẮM LỜI NÓI THẬT TRONG MỘT "NGÀY NÓI DỐI" Bùi Hoàng Tám 492
3/30/2017 ĐỀ NGHỊ CẤM CÁC ĐỊA PHƯƠNG SÁNG TÁC RA LỊCH SỬ Nhà thơ Trần Nhuận Minh 577
3/30/2017 ĐỘC LẬP: KHÔNG CHỈ ĐUỔI LŨ CƯỚP NƯỚC MÀ CÒN PHẢI ĐUỔI CÁI NÔ LỆ RA KHỎI ĐẦU Cao Huy Thuần 484
3/28/2017 NHÀ THƠ BÙI HOÀNG TÁM VƯỢT THÁI BÌNH DƯƠNG Nông Hồng Diệu 1593
3/27/2017 ĐẾ CỦA TƯỢNG Dạ Ngân 555
3/26/2017 VỀ HỌC VỊ CỦA CỤ NGUYỄN BỈNH KHIÊM Trần Tuấn Phương 558
3/25/2017 HÃY TRUNG THỰC VỚI LỊCH SỬ Kiều Mai Sơn 564
3/23/2017 PHÁT HIỆN MỚI GIẬT MÌNH VỀ HỌC VỊ CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM Ngọc Tô 680
3/23/2017 PHONG TRÀO THI ĐUA "TOÀN DÂN LÀM QUAN"... Bùi Hoàng Tám 711
3/21/2017 CỰU VÀ NGUYÊN Trần Đình Sử 601
3/21/2017 THƠ, NHƯ LỊCH SỬ TÂM HỒN NGƯỜI VIỆT NGOÀI NƯỚC Bùi Vĩnh Phúc 188
3/20/2017 THANH HÓA - CHUYỆN TÌNH Mai Hồng Niên 1229
3/19/2017 ÔI, LẠI…”NHÀ NGOẠI CẢM”! Tạ Hữu Đỉnh 755


Ngày Tiêu đề Tác giả Lượt xem
3/18/2017 CUỘC ĐỜI NHƯ MỘT CUỘC ĐUA St/ Theo eMail từ Nguyễn Khôi 908
3/17/2017 ĐỪNG QUÊN KÝ ỨC CỦA TUẦN BÁO “VĂN”! Lại Nguyên Ân 473
3/16/2017 VĂN HỌC VIỆT NAM ĐỐI MẶT VỚI TOÀN CẦU HÓA Gs-TS Huỳnh Như Phương 259
3/15/2017 QUAN CHỨC NGÀY NAY Trần Ngọc Sơn 628
3/15/2017 NAM TƯ: ĐỘC LẬP VÀ THÂN PHẬN MỘT NƯỚC NHỎ. Tô Hoàng 1091
3/13/2017 LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI (Game theory) Bùi Công Thuấn 98
3/10/2017 KÍ GIẢ ĐỨC TÁN CHUYỆN VỀ GIAO THÔNG HÀ NỘI TS. Nguyễn Sĩ Phương (biên dịch) 763
3/6/2017 HOÀNG TRẦN CƯƠNG, NGÔN NGỮ QUÊ HƯƠNG Nguyễn Đức Tùng 120

http://trannhuong.net/danh-muc-8/bau-ban-gop-co-phan-trang-2.vhtm

Bản tin trên trích từ trannhuong.com. Đây là trang web cá nhân của nhà thơ Trần Nhương có uy tín rộng. Hàng ngày có hàng ngàn người Việt trên khắp năm châu vào đọc. Đa số họ là nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà phê bình. Admin điều hành trang khá chuẩn (theo pháp luật Nhà nước) và khá thoáng trong thông tin. Chất nghệ sĩ và tình bạn văn chương là đặc điểm rất quý của nhà thơ Trần Nhương.
Nhìn vào một trang thống kê trên, tôi thấy có mặt nhiều tên tuổi phê bình: Nguyễn Đức Tùng, Bùi Vĩnh Phúc, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Huỳnh Như Phương. Nhưng số lượng người đọc bài phê bình thật nhỏ so với các kiểu bài thời sự, chính trị-xã hội khác.

Nguyễn Đức Tùng có 2 bài nhưng con số người đọc chỉ là 133 và 120.
Bài của Bùi Vĩnh Phúc sau hơn 2 tuần cũng chỉ có 188 người đọc.
Bài Lý Thuyêt trò chơi của Bùi Công Thuấn sau gần 1 tháng mới có 98 người đọc.

Bài của GS-TS Trần Đình Sử có số lượng đọc khá hơn (601 người đọc), nhưng bài này viết về chuyện thời sự chính trị: Cựu và Nguyên, đó là chuyện các quan chức Nhà Nước khi về hưu thích được gọi là Nguyên” (giữ nguyên quyền lợi)

Những bài có số lượng ấn tượng người đọc là các bài thời sự chính trị:
NHÀ THƠ BÙI HOÀNG TÁM VƯỢT THÁI BÌNH DƯƠNG- 1593
THANH HÓA-CHUYỆN TÌNH-1228
NAM TƯ: ĐỘC LẬP VÀ THÂN PHẬN MỘT NƯỚC NHỎ - 1091.
CUỘC ĐỜI NHƯ MỘT CUỘC ĐUA-908
KÍ GIẢ ĐỨC TÁN CHUYỆN VỀ GIAO THÔNG HÀ NỘI-763
ÔI, LẠI…”NHÀ NGOẠI CẢM”!-755
PHONG TRÀO THI ĐUA "TOÀN DÂN LÀM QUAN"...711.

ĐÔI ĐIỀU NGẪM NGHĨ

Nếu nhìn vào số lượng người đọc trên thì người viết phê bình không khỏi chán nản và thất vọng về công việc của mình. Viết là một hành động đòi chia sẻ. Ngoài lượng thông tin người viết đưa đến độc giả, ngoài mục đích diễn ngôn, người viết còn gửi gắm trong đó những điều gan ruột của mình và muốn tìm tiếng nói đồng cảm. Nhưng nếu không có người đọc, người viết chia sẻ với ai? Nhà văn là người cô đơn, nhà phê bình còn cô đơn hơn, vì mấy ai nghe được tiếng đàn như Tử Kỳ nghe Bá Nha đánh đàn, mấy ai có được tình tri kỷ văn chương như hai người này.

Âu là, trong thời của chủ nghĩa thực dụng, của fastfood, của những scandal giựt gân, còn có nhà phê bình, và nhà phê bình còn viết được, thế đã là quý. Phê bình còn người đọc là còn may mắn. Ai thích, ai cần thì đọc. Cuộc sống phong phú là ở chỗ có nhiều hàng hóa phục vụ mọi nhu cầu của con người. Cuộc sống dân chủ là ở chỗ mỗi người có thể chọn cho mình cái để đọc, không bị bắt phải đọc những thứ mình không thích (bị nhồi sọ). Sau những mỏi mệt vật lộn kiếm sống, có lẽ người ta cần cái gì nhẹ nhàng, cái gì làm cho sức sống nóng lên, cái gì làm cho tâm hồn vui vẻ hân hoan, cái gì thỏa mãn những điều thầm kín. Chẳng ai lại đi nhét vào đầu mình những cái nặng nề như lý luận, phê bình. Với vốn thời gian có hạn, người ta chỉ đọc những gì cần thiết và bỏ qua những gì mình không quan tâm. Không thể trách ai được.

Nhà văn, nhà phê bình cũng như mọi người, cũng là một thành phần xã hội, thực hiện chứa năng xã hội. Có gì ghê gớm đâu, có quyền lực gì để bắt mọi người phải đọc văn mình. Nhưng khi nhà văn, nhà phê bình đã được lòng tin của mọi người, anh ta trở thành thần tượng. Lúc ấy anh ta chỉ cần ho khẽ, người ta cũng nghe rầm rầm. Đấy là quyền lực của nhà văn. Thứ quyền lực vô hình nhưng vĩnh cửu. Homere, Shakespear, V.Hugo, Nguyễn Du, Hoài Thanh vẫn được tôn sùng là vì vậy. Điều quan trọng đối với người cầm bút, dù là nhà văn hay nhà phê bình, đó là chất lượng tác phẩm. Điều này còn hạn chế trong trang viết của cả nhà văn và nhà phê bình Việt Nam đương đại, dù chúng ta không thiếu nhà văn, nhà phê bình tài năng và tâm huyết.

VIẾT ĐỂ LÀM GÌ VÀ VIẾT CHO AI

Tôi luôn trăn trở về trang viết của mình. Viết để làm gì và viết cho ai. Nhiều khi trái tim mất hết lửa. Nhưng rồi lại say mê viết. Trong tâm tưởng, như mơ hồ nói chuyện với ai đó. Và một niềm tin là muốn làm điều gì đó có ích cho mọi người. Với những nhà văn tài năng, thật không dễ hiều. Nhà phê bình đem họ đến với người đọc. Nhà văn viết tác phẩm bao giờ cũng mong được chia sẻ. Nhà phê bình sẽ là tri kỷ. Xã hội cần định giá mọi hoạt động văn hóa văn học, mọi sản phẩm tinh thần, người ta cần đến nhà phê bình (như chuyên gia thực phẩm là người đánh giá thực phẩm là tốt hay có độc). Văn chương mà chứa độc tố thì có hại cho nhiều thế hệ...
Viết, dù là phê bình, cũng là sáng tạo. Sáng tạo luôn đem đến hạnh phúc. Nghĩ vậy, tôi lại tiếp tục viết (dù bài viết của mình sau 1 tháng chỉ có 98 người đọc)
Tháng 06 2017
_____________________

PHỤ LỤC
Phản hồi của các nhà văn nhà thơ


Ngày 5/5/2004
Thư của PGS-TS Phan Trọng Thưởng
Viện trưởng Viện Văn học
Về cuốn Chút tình tri âm

Kinh gui anh Bui Cong Thuan .
Toi rat han hanh duoc anh cho doc cac bai viet cua anh ve van chuong. Mac du chua doc het nhung toi van nhan thay o anh bau tam huyet van chuong. Toi dac biet quan tam toi nhung bai anh viet ve ly luan va phe binh van hoc. Toi chia se voi nhieu suy nghi cua anh ve thuc trang ly luan va phe binh van chuong cua ta hien nay. Neu trong gioi co nhieu nguoi nhin nhan dung muc nhu anh thi tuong lai van hoc chac chan se tot dep hon. Mong anh cong tac nhieu hon voi cac bao va tap chi o trung uong, trong do co tap chi Nghien cuu van hoc cua chung toi .
Kinh chuc suc khoe anh va gia dinh! Mot lan nua xin cam on nha y cua anh.

***

Nhà văn NGUYỄN DANH LAM
"Lam Nguyen Danh" ndanhlam@yahoo.com.vn
Monday, October 25, 2010 3:05 PM
(Phản hồi bài viết về tiểu thuyết Giữa dòng chảy lạc của Nguyễn Danh Lam)
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=14113

Anh Bùi Công Thuấn kính mến
Em vô cùng cảm động, bất ngờ khi nhận được email và bài viết của anh! Trước giờ, em đọc anh hầu như toàn bộ trên phongdiep.net, đặc biệt là qua loạt bài viết về tiểu thuyết VN. Em không ngờ một ngày được anh quan tâm, đọc giúp tác phẩm, và trên hết là có một bài phê bình rất công phu. Điều đó khiến em vô cùng cảm kích!

Bài viết của anh đã rất tròn trịa, nhưng trên hết đó là một góc nhìn ngoài tác giả, và như thế càng cần phải để nó nguyên vẹn như những gì anh đã viết ra. Em rất mong, nếu có điều kiện tái bản GDCL và được sự đồng ý của anh, em sẽ đưa bài viết này vào ấn phẩm!
Em quả không biết nói gì hơn ngoài lời cảm ơn anh thật nhiều! Rất mong sẽ có dịp nào đó được gặp anh để hàn huyên thêm, cũng như nếu có điều kiện anh em mình sẽ liên lạc qua email, điện thoại- số của em là 0903650904.
Kính chúc anh cùng gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc, có thêm nhiều bài viết và sáng tác!
Em Nguyễn Danh Lam.

***
Nhà văn ĐỖ TIẾN THỤY
"Đỗ Tiến Thụy"
Sunday, February 13, 2011 3:12 PM
(Phản hồi bài viết về tiểu thuyết Màu rừng ruộng của Đỗ Tiến Thụy)
http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Sac-mau-nhan-gian-trong-tieu-thuyet-Mau-rung-ruong-4433.html

Anh Bùi Công Thuấn kính mến!
Trước tiên tôi xin gửi lời tri ân tới anh, một nhà phê bình công tâm, một độc giả tâm huyết. Tôi không biết nói gì hơn khi n h tôi thấy thực sự xúc động trước những gì anh thể hiện trong bài viết. Anh, một nhà phê bình tự do không vì một sức ép nào khác ngoài những rung động trước tác phẩm muốn viết ra. Đó là điều đông đảo người làm nghề ghi nhận ở anh qua những bài anh viết.
Tôi không biết anh gửi bài viết này cho báo nào, nhưng tôi cảm nhận được đầy đủ trách nhiệm của anh trong lao động khoa học và nghệ sĩ, và tôi tin rằng độc giả sẽ công bằng với tất cả.

Một lần nữa xin cám ơn anh, và mong có dịp được diện kiến!
Nếu có thể được, xin anh cho số điện thoại để tôi có thể liên lạc.
Số của tôi: 0988112560

Kính thư!

***

Nhà thơ LƯU DIỆU VÂN (Canada)
“Vivian Luu” Wednesday, May 12, 2010 2:16 AM
(Phản hồi bài viết về thơ Lưu Diệu Vân)
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=12696

Xin cám ơn tác giả/ phê bình gia Bùi Công Thuấn đã viết một bài thậ công phu và cân bằng, thật khách quan về những sang tác của Lưu Diệu Vân…

Xin cám ơn đã dành cho sang tác của LDV nhiều cân nhắc và những lời phê bình góp ý thật đáng để LDV chiêm nghiệm học hỏi trong những sang tác kế tiếp của mình.

Xin gửi n h tri ân chân thành
Chúc tác giả Bùi Công Thuấn sức khỏe và nhiều an bình
LDV

***

Nhà văn PHONG ĐIỆP

--- On Tue, 8/24/10, Pham Phong Diep wrote:
http://buicongthuan.blogspot.com/2010/08/blogger-va-nhung-cach-tan-nghe-thuat.html


Cảm ơn bài viết mới của anh. Các bài viết của anh đều rất công phu, tâm huyết và thẳng thắn. Thời gian này em hay được mọi người hỏi "Bùi Công Thuấn là ai?"

Rõ ràng các bài của anh đã được mọi người quan tâm và chờ đón. Cảm ơn anh rất nhiều. Em nghĩ anh có thể tập hợp lại để in sách.

Chúc anh mọi điều tốt lành

***

Nhà văn LÊ ĐĂNG KHÁNG
Dang Khang Le Nhà thơ ĐỖ QUYÊN (Canada)
DoQuyen tvvt
30 thg 4. 2017

(Phản hồi bài viết về tập trường ca Lòng Hải Lý của Đỗ Quyên)
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=23527

Nhà phê bình Bùi Công Thuấn thân kính,

Một ngày thứ 7 sẽ không thể quên trong đời: được đọc bản thảo phê bình thơ mình “trúng hồng tâm” đến vậy (và không ít chỗ trúng cả “trái tim đen” nữa. hihi . Cảm phục phê bình gia quá xá: hiếm có người đọc xuyên thấu thơ ĐQ từ văn bản tới tác giả như thế!

Xin nhà phê bình cứ bảo toàn bản thảo.
Rất cảm ơn anh đã tặng món quà quý vô ngần.

***
Cũng mạn phép tác giả được cité những câu "trúng tim" hơn cả, như sự ghi nhớ [để mần thơ “ngày càng tiến bộ” J

…có những đoạn khó hiểu và có những đoạn dễ hiểu…
…là những dòng suy nghĩ miên man trôi đi...và trôi rất xa nguồn. Khoảng cách những câu thơ là những liên tưởng đứt đoạn, ẩn dụ nối tiếp ẩn dụ “cái biểu đạt” dẫn lối cho “cái biểu đạt” khác…
…Không có một hiện thực nào được phản ánh để người đọc có thể dùng làm hệ quy chiếu...
…Từ đó tôi tái cấu trúc và giải cấu trúc tác phẩm, kết nối các liên tưởng, loại bỏ những yếu tố…
…Câu chuyện này bị xé ra thành những giải, những chi tiết, và ngẫu nhiên quăng vào các đoạn…
…Hiện thực trong thơ...là hiện thực tư tưởng, hiện thực hư cấu...chuyển hóa thành suy tư, thành nhận thức có phẩm chất triết học…chưa đạt tới phẩm chất thơ tư tưởng, về căn cốt thơ Đỗ Quyên vẫn là thơ trữ tình…

…Và suy tư day dứt nhất… là suy tư về thời gian, về nỗi cô đơn hiện sinh.
…thì những vấn đề anh quan tâm sẽ không giống với nhà thơ trong nước.
…không bám vào kỷ niệm, không nhào nặn lại những tứ thơ về làng quê, cánh đồng… sáng tạo một “hiện thực” tư tưởng-thẩm mỹ…

… nhưng nếu bám vào cái hiện thực ấy để đọc thơ, thì hiện thực lập tức vuột khỏi tay người đọc…Chỉ có duy nhất một chữ “hẹn” làm nhiệm vụ giữ cho đoạn thơ không phân rã. Nhưng nếu vượt qua được ngôn ngữ tường minh của văn bản, người đọc sẽ thấy tư tưởng hiện lên.
…Tôi hiểu ngược lại, chính cấu trúc lỏng lẻo (như đã nói ở trên) của trường ca Lòng Hải lý là một đặc điểm .

…tự kềm chế diễn ngôn để tinh thần “giải thiêng” không gây sốc cho người đọc có não trạng quen ”thần tượng hóa”.

…Bên dưới cái lạnh lùng như băng, cái lý trí căng như thép, chất trí tuệ khô khan, là con người tình cảm, yêu tha thiết cuộc sống, bi phẫn trước bao nhiêu cảnh đời đau thương, khao khát và tràn đầy một niềm tin lao về ngày mai, Sống và Thơ…

… Và điều còn lại là một hồn thơ Việt thuần khiết.

***

Nhà văn KHÔI VŨ
"Nguyen Thai Hai"
Tuesday, August 10, 2010 11:11 PM

Anh Thuấn thân
Tôi vừa từ Hà Nội về chiều hôm qua. Trong mấy ngày dự Đại hội Nhà văn, tôi tình cờ có dịp trò chuyện với anh Lê Quang Trang, chủ tịch Hội NV TP HCM. Ngày cuối đến văn phòng Hội Nhà văn, vào phòng anh Hữu Thỉnh để từ giã thì lại gặp Lê Quang Trang. Lần này anh Trang có nhắc đến tên anh và hỏi tôi về anh. Sau đó Hữu Thỉnh cũng hỏi về anh, rồi hỏi tôi: "Thuấn có làm đơn vào Hội chưa nhỉ?". Hai ông CT và PCT tân BCH "giao" nhiệm vụ cho tôi là sắp tới "phải" "dụ" anh viết đơn. Đầu tiên cứ là việc ấy đã. Còn việc kết nạp được hay không là chuyện về sau.
Tôi thông tin đến anh vài dòng như thế để anh biết. Sau này còn giúp tôi "hoàn thành nhiệm vụ".
Thân
Khôi Vũ Nguyễn Thái Hải

***

Wednesday, October 20, 2010 8:26 AM
https://buicongthuan.wordpress.com/2016/07/10/truyen-ngan-khoi-vu/

Anh Thuấn thân mến
Tôi đã đọc bài viết của anh trên... blog Bùi Công Thuấn. Cảm ơn anh đã chịu khó đọc và có ý kiến. Cái ý lấy chuyện đời thường ai cũng biết mà viết thành truyện ngắn do anh nhận xét quả tình không phải là dụng ý của KV khi viết mà nó đến một cách rất tự nhiên. Bây giờ có người hệ thống và chỉ ra, biết mình là như thế lại đâm ra... sợ. Tuy vậy vẫn hy vọng sẽ không bị ảnh hưởng nhiều vì đó đã là cái "chất" mất rồi!

Tôi đang "đóng cửa" để viết một cuốn tiểu thuyết quan trọng, có thể phải qua 2012 mới xong. Nói là "quan trọng' chứ không phải là "hay" vì nội dung là về cuộc đời của ông bố tôi, có liên quan đến gia tộc là con cháu nhiều đời của bà Nguyễn Thị Lộ. Khi nào viết xong, sẽ gửi để anh đọc trước góp ý (ít lắm cũng phải cuối năm 2011).
Gửi đến anh và gia đình lời chúc sức khỏe và nhiều niềm vui.
***

Chủ Nhật, 14 tháng 5, 2017

PHÊ BÌNH VĂN HỌC-DIỆN MẠO CỦA MỘT THỜI




BÀI VÍÊT MỚI
MỜI BẠN ĐỌC CHUYÊN ĐỀ
PHÊ BÌNH VAN HỌC - “DIỆN MẠO CỦA MỘT THỜI”.

Chuyên đề khắc họa vài đường nét của phê bình văn học Việt Nam
từ đổi mới 1986 đến nay. Bạn có thể đọc trên trang chuttinhtriam này hay đọc trên trang buicongthuan.wordpress.com




1.CHÚT TÌNH TRI ÂM
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/03/25/chut-tinh-tri-am/

2. PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG-NHỮNG GÓC NHÌN
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/03/02/phe-binh-van-chuong-nhung-goc-nhin/

3. LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI (Game Theory) trong nghiên cứu và phê bình văn học
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/03/12/ly-thuyet-tro-choi-game-theory-trong-nghien-cuu-va-phe-binh-van-hoc-viet-nam/

4. NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH CHÍNH TRỊ
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/02/27/nha-phe-binh-chinh-tri/

5. TRẦN THANH ĐAM và lý thuyết “Tác phẩm văn học như một đơn vị ngôn từ”
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/02/19/tran-thanh-dam-va-ly-thuyet-tac-pham-van-hoc-nhu-mot-don-vi-ngon-tu/

6. NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH LÝ THUYẾT
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/04/05/nha-phe-binh-ly-thuyet/

7. GS-TS TRẦN ĐÌNH SỬ và THI PHÁP HỌC
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/04/11/gs-ts-tran-dinh-su-va-thi-phap-hoc/

8. PGS-TS ĐỖ LAI THÚY-NHÀ PHÊ BÌNH LAI GHÉP
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/04/17/pgs-ts-do-lai-thuy-nha-phe-binh-lai-ghep/

9. TS CHU VĂN SƠN và phê bình văn học
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/04/05/ts-chu-van-son-va-phe-binh-van-hoc/

10. TRƯỜNG CA LÒNG HẢI LÝ của Đỗ Quyên (Canada)
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/04/30/truong-ca-long-hai-ly-cua-do-quyen/

11. NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH PHONG TRÀO
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/05/12/nha-phe-binh-phong-trao/

12. NGUYỄN HÒA-“BÀN PHÍM VÀ CÂY BÚA”
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/05/14/nguyen-hoa-ban-phim-va-cay-bua/

13.INRASARA-NHÀ PHÊ BÌNH LẬP BIÊN BẢN
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/05/14/inrasara-nha-phe-binh-lap-bien-ban/

14.VŨ BÌNH LỤC-Nhà phê bình phong trào
https://buicongthuan.wordpress.com/category/vu-binh-luc-nha-phe-binh-phong-trao-bui-cong-thuan/

15.ĐẶNG TIẾN-“GU” HAY PHƯƠNG PHÁP
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/02/27/dang-tien-gu-hay-phuong-phap/

16. “LUẬN VĂN NHÃ THUYÊN”
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/03/03/luan-van-nha-thuyen-hay-su-that-bai-cua-viec-van-dung-ly-thuyet-trong-nghien-cuu/

17.THÂN PHẬN PHÊ BÌNH
https://buicongthuan.wordpress.com/2017/06/15/than-phan-phe-binh/

NGUYỄN HÒA - "BÀN PHÍM VÀ CÂY BÚA"

Phê bình văn học-Diện mạo của một thời
NHÀ PHÊ BÌNH VỚI “BÀN PHÍM VÀ CÂY BÚA”
Bùi Công Thuấn





“Bàn phìm và cây búa” (Nxb Văn học-2007) là cuốn sách đầu tiên của nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa.
Nhà báo Mai Xuân Nghiên hỏi:
- “Bàn phím và “Cây búa” nghe có vẻ “chém đinh chặt sắt” quá, thưa anh Nguyễn Hòa?
- Không. Tôi “nghịch” ấy mà. Cũng như các đồng nghiệp khác, bây giờ tôi ít dùng bút, mà chỉ dùng computer. Còn “cây búa” thì có liên quan đến câu chuyện cách đây hơn 10 năm. Anh Nguyễn Duy đọc mấy bài phê bình của tôi rồi bảo: “Anh mà kiếm được tiền tài trợ, sẽ trao giải “cây búa vàng” cho chú”. Quen dần, nhiều người cũng đùa, gọi tôi là “cây búa”. Tôi dùng lại chữ “cây búa” của Nguyễn Duy, nhưng để nó trong ngoặc kép, tức là cho có hình ảnh chứ không phải “cây búa” theo nghĩa đen...”[1]

HOÀ NHƯNG KHÔNG HÒA

Nhà phê bình có tên là Hòa nhưng trong phê bình ông không hòa với ai cả. Theo tường thuật của Trần Ngọc Linh trên Vietnam.net, trong Hội nghị lý luận phê bình lần thứ II, có người gọi Nguyễn Hòa là "thùng thuốc súng" và hỏi ông, năm nay ông chuẩn bị súng ống đạn dược ra sao để đến hội nghị? Nguyễn Hoà chỉ cười và bảo: “Đang lau chùi dầu mỡ cất ở nhà”. Nhưng ai mà tin được? Ít nhất thì ông Nguyễn Hoà cũng có tham luận đọc tại Hội nghị lần này. Thiên hạ lại bàn tán, dự đoán về những người sắp bị Nguyễn Hoà "phê" và "bình".[1b]

Do đâu Nguyễn Hòa hay phê bình trực diện vào tác giả? Ông nói: “Tôi là người sống trung thực, thẳng thắn nên gặp khuất tất trong nghề là không chịu được. Hơn nữa, môi trường học thuật, văn chương ở Việt Nam đã đến lúc phải được cảnh báo… cái “tạng” của tôi thì không dung túng cho sự khuất tất.”[2] À! Nguyễn Hòa chỉ phê bình “sự khuất tất” trong môi trường học thuật, văn chương ở Việt Nam. Điều này này có nguồn gốc hiểu được.

Nguyễn Hòa là một người lính biên giới. Ông được quân đội cho về học ngành văn hóa quần chúng tại ĐH Văn hóa Hà Nội, học chuyên tu 3 năm. Học xong ở ĐH, ông được điều về dạy ở Khoa triết của Học viện Chính trị - Quân sự. Nguyễn Hòa không được đào tạo bài bản về lý luận và phê bình văn học. Sở học của ông là do tự học. Cách học của ông cũng lạ. Ông kể: “tôi cứ nghe bạn bè kháo nhau có thầy nào giỏi giảng ở đâu thì đạp xe đến nghe, đông quá thì kê ghế ngồi ké ngoài cửa sổ. Sau này, tôi may mắn được tiếp xúc với những cây đại thụ của ngành khoa học xã hội như các thầy Trần Đình Hượu, Từ Chi, Đoàn Văn Chúc... Tôi rất quý sự học nhưng phải là học thực chứ không phải để lấy cái bằng.”[3 đd]

Trong cuốn Bàn phím và “Cây búa”, Nguyễn Hòa viết về hai loại hiện tượng, hiện tượng “đạo văn” và các công trình anh đánh giá thấp nhưng lại được quảng cáo, lăng-xê rầm rộ. Với những người đạo văn, ông không cho họ con đường thoát. Ông rất tự tin về bài viết của mình. Nguyễn Hòa giải thích: “Tôi thường phải lật đi lật lại, bảo đảm chắc chắn mình đúng thì mới viết. Cũng có một vài người đưa ra ý kiến bóng gió này khác nhưng chưa ai chứng minh được tôi sai cả. Tôi biết, bắt bẻ được tôi là rất khó, bởi khi viết bài báo dù nhỏ thôi nhưng đều được tôi triển khai như một hệ thống chặt chẽ. Bởi thế, khi gửi đến toà soạn nào, bao giờ tôi cũng đề nghị không cắt. Không phải vì tôi kiêu ngạo mà bởi hệ thống bài viết của tôi chặt chẽ đến mức mà cắt đoạn nào ra là có nguy cơ sập toàn bài”[4-đd]

Có một trường hợp mà tôi thấy ông gay gắt, quyết liệt, là cuốn Con mắt thơ của nhà phê bình Đỗ Lai Thúy. Nguyễn Hòa kể:

Con mắt thơ - là cuốn ăn cắp kinh hoàng…Hồi ấy Hội Nhà văn họp vào thứ bảy để xét giải. Anh Nguyên Ngọc bảo mọi người về nghỉ chủ nhật và cân nhắc kỹ, sáng thứ hai bỏ phiếu. Chiều thứ bảy, tôi nghe cái tin sắp bỏ phiếu và trong đó có “Con mắt thơ”. Tôi bảo Chu Văn Sơn cùng đến chỗ anh Nguyên Ngọc. Hai thằng đi bằng cái xe Babetta cổ lỗ sĩ của tôi.

Đến nhà Nguyên Ngọc, tôi lấy cuốn của Đỗ Lai Thúy ra (khi đó là cuốn duy nhất về lý luận – phê bình có khả năng đoạt giải) và trình bày: Bọn em chẳng phải hội viên, nhưng bọn em ra gặp anh là vì Hội. Ông Ngọc hỏi: Làm sao? Tôi giở cuốn sách và nói: Đây là cuốn ăn cắp. Ông hỏi tiếp: Ăn cắp của ai? Lúc ấy, tôi mới lôi ra một loạt tên tuổi mà ông Ngọc cũng quý mến. Ông Ngọc bảo: Sao lại có chuyện đó, ông Đặng Tiến còn viết bài ca ngợi cơ mà? Tôi bảo: Ông Tiến viết cách đây bao nhiêu năm, có thể đã quên rồi. Hoặc có thể, người ta cứ để trao giải rồi mới “nện” cho xấu hổ thì sao? Tình huống xã hội có nhiều lắm. Nếu các anh vẫn bỏ phiếu thì em không phản đối, nhưng sẽ lên tiếng. Chúng em không phải phản đối Hội Nhà văn, mà lên tiếng để bảo vệ giới tri thức trong nước!

Anh Ngọc lại hỏi: Chú cho dẫn chứng đi. Tôi bảo Chu Văn Sơn: Bây giờ tôi cầm quyển của Đỗ Lai Thúy, Sơn cầm cuốn của Lê Huy Oanh, hai thằng cùng “song ca” cho anh ấy nghe nhé!

Tôi và Sơn đọc được nửa trang. Nguyên Ngọc giật mình hỏi: Thế có ngoặc kép không? Tôi nói: Nếu có ngoặc kép, thì chúng em đến gặp anh làm gì?

Rồi ông Thúy cũng đến nhà Chu Văn Sơn để nói khó. Sơn không công bố chuyện đó nữa. Thế mà 7 năm sau, ông Thúy vẫn tiếp tục tái bản mấy lần, không sửa chữa, bất chấp thiện chí của đồng nghiệp. Đến năm 2002, tôi phải thốt lên với Chu Văn Sơn: Thôi đến mức này thì không thể nào im lặng được nữa. Ông ấy khinh bọn mình quá. Ông ấy lợi dụng sự tử tế của anh em. Vì tôi vẫn nghĩ, với những gì ông Thúy đã làm được thì việc gì phải đi ăn cắp. Dù sao ông Thúy cũng có tên tuổi rồi.”[5]

Trong bài viết: “PGS TS Đỗ Lai Thuý: từ những tiền đề sai đến một kết quả… đúng!?” phản biện bài: “Tiếp cận văn học từ hệ thống văn hóa” của Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Hòa lại nhắc lại chuyện Con mắt thơ của Đỗ Lai Thúy: “Quả thật, thưa PGS TS Đỗ Lai Thuý, tôi buộc phải nói rằng Mắt thơ (hay trước đây là Con mắt thơ) là tác phẩm nên “giấu đi” chứ không nên “khoe ra” trước bàn dân thiên hạ, vì lẽ đơn giản: đó là một công trình “đạo văn” mà bất kỳ một trí thức nào có chút liêm sỉ cũng nên lấy làm xấu hổ. Lâu nay, trước nhiều đồng nghiệp, Mắt thơ hầu như không có ý nghĩa, nên dù đến năm 2006 trong bản tham luận, ông có “đánh bóng mạ kền” cho nó bằng cách giới thiệu mình đã đạt được “thành tựu” gì trong đó.”[6]

Cũng trong bài viết trên, Nguyễn Hòa còn chỉ ra Đỗ Lai Thúy “hời hợt, cảm tính, thiếu vắng một số căn cốt lý thuyết cơ bản về đối tượng cùng những luận giải mang màu sắc “hư vô”… cả khi xem xét vấn đề từ góc độ triết học với việc sử dụng khái niệm ý thức xã hội và sự phân loại ý thức xã hội, PGS TS Đỗ Lai Thúy cũng chỉ dựa trên các suy đoán chủ quan chứ chưa xem xét như những đơn vị kiến thức được thâu nhận có hệ thống, cơ bản và cập nhật.”[6-đd]

Thực ra muốn đánh giá phẩm chất bài viết của Nguyễn Hòa, người đọc phải đi lại con đường ông đã nghiên cứu, phải có trí thức sâu rộng, đọc nhiều. Điều này thật không dễ. Chỉ những nhà nghiên cứu có chuyên môn sâu mới làm được. Dù vậy, ý kiến của Nguyễn Hòa phản biện trong hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử”, và thái độ quyết liệt của ông với cuốn Con mắt thơ của Đỗ Lai Thúy đến nay tỏ ra là những nhận định có cơ sở.

Hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên tử” do tạp chí Nhà Văn tổ chức ngày 8/8/2012 tại Hội trường Hội Nhà văn Việt Nam với sự tham dự của một số nhà khoa học, cựu quan chức Bộ Ngoại giao, báo chí và nhiều nhà phê bình. Theo Kỷ yếu hội nghị, có 22 tham luận. Đa số tham luận là những bài tụng ca thơ Hoàng Quang Thuận. Nguyễn Hòa không đến dự hội thảo nhưng có gửi tham luận.

Nguyễn Hòa nói thẳng: “tôi vẫn xin nói ngay rằng, đó là mấy bài “thi ký” rất yếu về ý tưởng lẫn cách thức tổ chức bài thơ, cách thức sử dụng ngôn từ… Nếu thực sự “tiền nhân mượn bút” của Hoàng Quang Thuận để “viết thơ” thì xem ra thơ của “tiền nhân” đã sa sút đến mức thê thảm! Dù tác giả làm nhiều bài thơ tứ tuyệt, hoặc ghép 2 bài tứ tuyệt thành 1 bài thất ngôn bát cú cho có dáng dấp Đường luật, thì ngay cái việc cố gắng ép vần cũng đã đưa lại ý tứ khôi hài.”

Nguyễn Hòa hoài nghi về bản chất của vấn đề: “Tôi không rõ Hoàng Quang Thuận được khai tâm – hoằng pháp từ khi nào, song căn cứ vào những gì ông kể thì xem ra, sự “đốn ngộ” của ông đã nhanh chóng thấu đến cõi của “tiền nhân”. Chẳng thế mà hàng trăm năm nay, “tiền nhân” không chọn ai, lại chọn đúng 1 ông Giáo sư- Tiến sĩ để “giáng bút”. Và tôi kinh ngạc vì thấy vào thời buổi văn minh phát triển như ngày nay, 1 GSTS lại có thể kể một cách rất tự tin về 1 câu chuyện nhuốm màu hoang đường không khác gì điều kỳ bí của mấy ông bà “thần lô, thánh đề”. [7]

Sau đó Hoàng Quang Thuận bị phát hiện đạo văn, Thường vụ Hội Nhà Văn phải nhận trách nhiệm trước công luận:

“3. Trước dư luận về Hội thảo “Hoàng Quang Thuận và non thiêng Yên Tử”, Ban Thường vụ Hội Nhà văn đã đưa ra những đánh giá về hội thảo này, đồng thời rút kinh nghiệm một cách nghiêm khắc những thiếu sót trong việc quản lý hoạt động của các cơ quan báo chí Hội Nhà văn, trong đó có việc chọn lựa tác giả và tác phẩm để hội thảo.

4. Ngay sau cuộc họp này, Ban Thường vụ Hội Nhà văn đã có văn bản yêu cầu Tạp chí Nhà văn giải trình một số vấn đề liên quan đến việc tổ chức Hội thảo “Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử” mà dư luận đang đề cập…”(Thông báo của Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam)[8]

Trong sự việc này, nhà phê bình Nguyễn Hòa ghi được một điểm son trong lòng tin của người đọc. Bởi ông không theo dàn đồng ca khen thơ Hoàng Quang Thuận. Ông đối diện với với văn bản thơ để khám phá vấn đề. Ông tự hào là người “ngửi mùi” nhanh lắm”[5-đd] những “mùi” khuất lấp ngoài văn chương.

KHÓ TRÁNH NHỮNG NGHI NGẠI

Nhà thơ, nhà phê bình Inrasara mượn chữ của Nguyễn Hưng Quốc gọi Nguyễn Hòa là “nhà phê bình mù”. Inrasara cho rằng, bài “Một số lý thuyết ngoại nhập và văn học Việt Nam gần đây” của Nguyễn Hòa đăng trên Vanvn.net, ngày 3-8-2016 phạm cả khối sai lầm về kiến thức mà người đọc có hiểu biết cơ bản về hậu hiện đại không khó nhận ra. Inrasara bênh vực Hậu hiện đại, chê Nguyễn Hòa lạc hậu và “mù” về văn chương Hậu hiện đại Việt Nam.

Inrasara cho rằng: “Nếu chỉ đọc báo Văn nghệ, và báo văn nghệ Nhà nước các loại thì nhận đinh kia không sai [BCT: nhận định của Nguyễn Hòa], nhưng tinh thần hậu hiện đại là phi tâm hóa. Mà đại bộ phận sáng tác hậu hiện đại nằm ở “ngoại vi”: Văn chương mạng, sáng tác của người Việt hải ngoại, văn học ngoài luồng, tác phẩm in phi chính thống./ 12 năm, xuất hiện hơn trăm tác giả hậu hiện đại ở cả phía chính thống lẫn [sáng tác bị cho là] ngoại vi [không kể tác giả là người Việt hải ngoại] thuộc ba thế hệ khác nhau, thì “lối viết hậu hiện đại trở nên phổ biến ở Việt Nam” rồi là gì! Không nhận ra chúng mới là mù.”[9]

Nhưng rồi thực tế văn chương đã giúp Inrasara nhận ra rằng:“Có thể các sáng tác hậu hiện đại được sơ khởi bày ra ở trên, tạo cảm giác cho người đọc rằng chúng chỉ là những thử nghiệm dị hợm, một thái độ phá phách không hơn không kém. Cũng có thể lắm thế hệ nhà thơ hậu hiện đại hôm nay chưa nẩy nòi ra “tác giả” tài năng để tạo ra “tác phẩm” hậu hiện đại lớn. Thực tế, thơ hậu hiện đại Việt có đó, không thể chối bỏ. Nó đã khởi động. Nó đang xảy ra…Nó chưa là thành tựu, và “chưa đi đến đâu”, như vài phán định dễ dãi về nó như thế. Nên, chưa thực sự xâm nhập vào dòng chính lưu để chính nó trở thành chính lưu.”[10]

Một nhà phê bình nói về văn học ngoài luồng, một người lại nhận xét văn chương ở giòng chính lưu, họ không gặp nhau là phải. Tuy vậy, Inrasara cũng phải công nhận những nhận định của Nguyễn Hòa là không sai. Và đến nay (2017) nhìn vào sự phát triển của văn chương Hậu hiện đại ở Việt Nam, người đọc có thể phân xử trong hai người, hay cả hai nhà phê bình “tay ngang”, ai sáng, ai “mù”!
Có nên đánh thức tính xấu hổ trong phê bình là nhan đề bài viết của nhà thơ Nguyễn Trọng tạo Nhân đọc 2 bài viết của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa [11]. Đó là các bài: Sao cứ ép tôi hiểu thơ giống ông của Nguyễn Thanh Sơn (Tia sáng, 8-2001)

và bài Về một chàng hiệp sĩ – thi sĩ cưỡi Rôxinantê đỡ đầu cho "thơ trẻ" của Nguyễn Hòa (Tia sáng, 9-2001). Nguyễn Trọng Tạo bênh vực Thơ Trẻ (thơ của những nhà thơ trẻ tuổi đầu thế kỷ XXI như Văn Cầm Hải, Vy Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Hữu Hồng Minh...). Ông không chịu được những nhận định của Nguyễn Hòa và Nguyễn Thanh Sơn chê Thơ Trẻ. Nguyễn Trọng Tạo viết: “...tôi không đồng tình với Nguyễn Hòa (Ngọc Oanh) khi phê phán quá quắt và vô nguyên tắc thơ Văn Cầm Hải, và Nguyễn Thanh Sơn sổ toẹt thơ Vi Thùy Linh, hai nhà thơ trẻ có tài, có học, và có thức trong "thơ trẻ" gần đây, thậm chí có anh còn đòi cả "các ngành hữu quan" (nghĩa là pháp luật) can thiệp vào thơ của họ.” Nguyễn Trọng Tạo giải thích: “Vấn đề văn trẻ nói chung và thơ trẻ nói riêng, gần đây được tranh luận tương đối sôi nổi với nhiều nhận định khác nhau. Có khen, có chê và có cả "sổ toẹt". Điều đó chứng tỏ "thơ trẻ" đã có một cái gì đó làm cho người ta chú ý. Đó là những phản ứng lành mạnh (trên mặt bằng chán ngấy trước đó). Ấy thế mà Nguyễn Hòa không chỉ sổ toẹt thơ trẻ mà còn sổ toẹt cả phê bình”.

Nếu Nguyễn Trọng Tạo phân tích cái hay cái mới của thơ trẻ để thuyết phục nhà phê bình già Nguyễn Hòa thì hay biết mấy, trái lại, Nguyễn Trọng Tạo lại “đánh” vào năng lực và nhân cách Nguyễn Hòa. Rằng, nhà phê bình phải biết xấu hổ. Ông còn dẫn kinh điển: “C.Marx còn cho đấy là một dạng thức cách mạng ("Sự xấu hổ – đó cũng là một dạng của cách mạng").

Nguyễn Trọng Tạo cho rằng, Nguyễn Hòa nên xấu hổ vì: “khi phê bình bài phê bình của tôi với tựa đề "Sự ngộ nhận trong phán xét văn trẻ", Nguyễn Hòa đã nhiều lần dẫn sai tựa đề này thành ra "sự ngộ nhận trong phán xét thơ trẻ". Văn là nói chung về văn chương, còn thơ là thơ mà thôi. Cũng như trước đây khi anh Nguyễn Hòa viết bài phê phán những bài thơ đang ở dạng bản thảo chưa hoàn chỉnh của Văn Cầm Hải "Phải chăng đó là thơ" anh không đủ can đảm ký tên. Nguyễn Hòa mà phải khoác cho mình một cái tên ái nam ái nữ Ngọc Oanh gì đó”.

Nguyễn Hòa nên xấu hổ vì kiến thức phê bình nông cạn: “Khi Nguyễn Hòa khẳng định: "thơ trẻ" (ở ta – NTT) trở về với những đài tưởng niệm cách đây dăm ba chục năm người phương Tây đã từng dựng lên để nhớ tới "thơ điện", "thơ man rợ" – những thứ thơ mà các nhà thơ như Marinetti, Pélieu, Merssagier... đã chế tạo ra", và cho rằng nó đã "lỗi thời", thì xem ra anh hiểu khá nông cạn về nhà thơ lớn người Ý từng sống ở Pháp có tên là Marinetti (1876-1944).”

Nguyễn Hòa nên xấu hổ vì “sở đọc” và “sở hiểu” của mình rỗng tuênh: “Tôi tự nghĩ rằng cái "sở hiểu" của mình thật có hạn, cái "sở đọc" lại càng có hạn hơn, vì càng đọc càng thấy mình ngu dốt trước tri thức mênh mông của thiên hạ. Tôi không rõ "sở đọc" của Nguyễn Hòa đến đâu, nhưng khi anh viết: "Có cái gì đó khôi hài khi Nguyễn Trọng Tạo khen ngợi những câu thơ trẻ nhưng qua đó lại bộc lộ cái "sở đọc" còn quá hạn hẹp”. Nếu biết tự xấu hổ, chắc chẳng ai dám khoe cái "sở đọc" rộng hoác của mình. Đọc mà không hiểu thì thà không đọc còn hơn.”

Cuộc “đụng độ” giữa Nguyễn Hòa với Inrasara và Nguyễn Trọng Tạo tuy khác về hiện tượng, nhưng cùng là một vấn đề. Đó là dụng chạm giữa nhà phê bình và nhà thơ, đụng chạm giữa “nhà phê bình già” chê thơ trẻ (Thơ Hậu hiện đại ngoại vi và Thơ Trẻ chính lưu trong nước) với người bênh vực thơ trẻ đầu thế kỷ XXI. Trong khi trao đổi, ngôn ngữ của hai bên có lúc quá đà, mỗi bên đều không kềm chế được cảm xúc của mình. Từ hiện tượng này, phê bình văn học Việt Nam lộ ra một điểm yếu ấy là, nhiều nhà phê bình (theo cảm quan và tư duy nghệ thuật cũ) đã không theo kịp sự phát triển của sáng tác.

Nhưng điều tôi nghi ngại nhiều về Nguyễn Hòa là bài ông viết về GS Nguyễn Huệ Chi, sau đó bài của Nguyên Hòa bị Đặng Văn Sinh phản bác.[12]

Nguyễn Hòa cho biết: “Hội Nhà văn Hà Nội trao giải thưởng…năm 2013…, tôi bị bất ngờ với “giải thưởng thành tựu” dành cho sự nghiệp văn học của… Giáo sư (GS) Nguyễn Huệ Chi! Cũng ngẫu nhiên, đúng thời điểm GS Nguyễn Huệ Chi nhận giải thưởng thì tôi công bố bài Đôi điều gửi tới GS Nguyễn Huệ Chi (BCT: Văn nghệ số 41 912.10.2013- phê bình cuốn sách Văn học cổ cận đại Việt Nam - Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật của GS Nguyễn Huệ Chi), trong đó đưa ra một số câu hỏi và đề nghị Giáo sư trả lời, trong đó có mấy câu hỏi khá hệ trọng mà GS Mai Quốc Liên, GS Nguyễn Đình Chú đặt ra đã lâu nhưng chưa thấy GS Nguyễn Huệ Chi nói gì…”[14e] Trong bài viết, Nguyễn Hòa đặt vấn đề: “GS Nguyễn Huệ Chi "đạo văn" hay "phóng tác" từ tác phẩm của Trần Nhân Tông nhưng lờ đi, không nói rõ nguồn gốc, hoặc ông bắt chước Nguyễn Lang (đoạn của Nguyễn Lang khá dài nên không dẫn lại, có thể tìm đọc trong: Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, NXB Lá bối, SG, 1973, từ tr.276 đến 279; và Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Văn học, H, 2008, từ tr.256 đến tr.258), rất mong GS Nguyễn Huệ Chi tường giải vấn đề này”.

Đặng Văn Sinh cho biết: “ngoài việc chụp mũ GS Nguyễn Huệ Chi đạo văn của Trần Nhân Tông và Nguyễn Lang, nhà phê bình Nguyễn Hoà còn nghi ngờ ông rút ruột luận án tiến sĩ của Trần Hải Yến khi viết bài “Giai nhân kỳ ngộ diễn ca, một thể nghiệm mới của Phan Châu Trinh về truyện thơ lục bát”.

Ở phần Kết, Nguyễn Hòa còn yêu cầu: “Lời kết, cuối cùng xin nói ra điều băn khoăn nhất của tôi với GS Nguyễn Huệ Chi là tại sao bài viết của GS Mai Quốc Liên, GS Nguyễn Đình Chú công bố công khai đã lâu mà hoàn toàn không thấy GS Nguyễn Huệ Chi đả động? Tôi băn khoăn vì thiển nghĩ dù GS Nguyễn Huệ Chi có thể coi đó là điều rất bình thương hoặc chỉ là biểu hiện của thái độ ác ý, đố kỵ...và ông “không thèm chấp” thì ông vẫn nên nói rõ một lần để bảo vễ danh dự của mình. Bởi đơn giản vì nếu ông đã và sẽ im lặng thì sự hồ nghi vẫn mãi đeo bám theo ông.”

Đặng Văn Sinh (nhà văn) tự nhận mình là “một người từ lâu có dõi theo con đường học thuật và hoạt động xã hội của GS Huệ Chi mà không có hân hạnh quen ông, từ chỗ tò mò đến băn khoăn tìm hiểu, thấy đã đến lúc phải lên tiếng với công luận một đôi điều. Bài viết của chúng tôi gồm hai phần, nhằm giải đáp hai câu hỏi trong số ba câu của ông Hoà, còn câu cuối, ông mượn lại lời GS Nguyễn Đình Chú (một người thầy đáng kính), vì không phải là người trong cuộc, xin nhường cho người khác có đủ thẩm quyền hơn mình, bởi xét ra, câu hỏi ấy hẳn liên quan đến nội tình lịch sử một thời kỳ dài của Viện Văn học”.

Đặng Văn Sinh đã trưng ra nhiều bằng chứng để luận giải GS Nguyễn Huệ Chi không “đạo văn” và không “rút ruột” luận văn của người khác. GS Nguyễn Huệ Chi là một nhà nghiên cứu, ông có cách làm khoa học, sâu sắc và tầm bao quát vấn đề. Từ đây Đặng Văn Sinh cảnh báo Nguyễn Hòa:

“Với những dẫn chứng và đối chiếu tuần tự của chúng tôi, trên cơ sở cứ liệu cũ mới còn lưu giữ trong sách báo, cùng những nhận xét, đánh giá nghiêm chỉnh của một số nhà văn, nhà khoa học như GS Vũ Khiêu, TS Đặng Thị Hảo, nhà văn Hoàng Quốc Hải, nhà nghiên cứu Đỗ Quý Toàn..., thiết nghĩ, nhà phê bình Nguyễn Hoà nên bình tĩnh đọc hết Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật. Có thể, sau khi đọc và nghiền ngẫm trên tinh thần của một người cầm bút vì chân lý, cùng với thời gian, hy vọng ông sẽ có một cách nhìn khác, công bằng hơn, bao dung, và độ lượng hơn so với cách đọc chộp vội từng đoạn từng khúc (đoạn chương thủ nghĩa), với những ngôn từ “ném đá” trước đây của ông”

Trong bài viết, nhiều lần Đặng Văn Sinh phê phán Nguyễn Hòa: ““con mắt xanh” của nhà phê bình đao búa lại mắc bệnh quáng gà theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Từ cách tiếp cận văn bản cẩu thả đến phương pháp luận sai lầm, xuất phát từ động cơ thiếu trong sáng, Nguyễn Hoà đã bộc lộ sự non yếu trong bài viết của mình về khả năng chuyên môn”; ” chúng tôi vẫn nghi ngờ, Nguyễn Hoà, thật ra, chưa hề đọc luận án tiến sĩ của Trần Hải Yến cũng như chuyên luận về Giai nhân kỳ ngộ diễn ca… của GS Nguyễn Huệ Chi một cách nghiêm túc. Chính vì thế, ông đã vội vàng quy chụp bằng thứ ngôn ngữ đao búa, cưỡng bức chân lý từ những lý do ngoài văn chương. Đây chính là điều tối kỵ đối với người cầm bút phê bình, vì phản biện kiểu ông Nguyễn Hoà chính là mình tự hạ thấp mình”.

Tuy nhiên, Đặng Văn Sinh vẫn phải thừa nhận có sự giống nhau giữa những đọan văn Nguyễn Hòa công bố, rằng Nguyễn Huệ Chi “đạo” văn của văn bản gốc. Đặng Văn Sinh viết về sự giống nhau của Nguyễn Huệ Chi và Trần Nhân Tông: “Trên thực tế, quả thật hai văn bản khá giống nhau, và không thể phủ nhận một điều, khi viết công trình của mình, Nguyễn Huệ Chi đã tham khảo từ trước tác của Trần Nhân Tông”. Đặng Văn Sinh cũng công nhận sự giống nhau của Nguyễn Huệ Chi với luận văn của Trần Hải Yến: “So sánh giữa hai văn bản, chúng tôi thấy, giữa Nguyễn Huệ Chi và Trần Hải Yến cũng có một vài điểm tương đồng về cách nêu khái niệm (như các phạm trù “thời gian nghệ thuật”, “không gian nghệ thuật”, điều mà từ rất nhiều năm nay hầu như ta nghe đã quen đến thành nhàm); hay cách đặt vấn đề và phương pháp luận, nhưng về cấp độ, có thể nói giữa hai bên hoàn toàn khác nhau...”

Việc Đặng Văn Sinh xác nhận có sự giống nhau trong văn bản của GS Nguyễn Huệ Chi với Trần Nhân Tông và Trần Hải Yến đúng như những gì nhà phê bình Nguyên Hòa nêu ra, như vậy cách đặt vấn đề của Nguyễn Hòa là có cơ sở, không phải là “vu khống” như Đặng Văn Sinh quy kết. Tôi thiết nghĩ, nhà phê bình Nguyễn Hòa không phải là nhà nghiên cứu chuyên sâu một vấn đề như GS Nguyễn Huệ Chi. Vì thế ông phát hiện vấn đề mà chưa có thời gian và điều kiện nghiên cứu lại toàn bộ quá trình nghiên cứu của GS Nguyễn Huệ Chi, nên ông chỉ đặt vấn đề và muốn được nghe lý giải. Nguyễn Hòa viết: “rất mong GS Nguyễn Huệ Chi tường giải vấn đề này”. Vấn đề thứ ba Nguyễn Hòa nhấn mạnh: “điều băn khoăn nhất của tôi với GS Nguyễn Huệ Chi là tại sao bài viết của GS Mai Quốc Liên, GS Nguyễn Đình Chú công bố công khai đã lâu mà hoàn toàn không thấy GS Nguyễn Huệ Chi đả động? Và trong bài viết bênh vực GS Nguyễn Huệ Chi, Đặng Văn Sinh cũng không nói gì. Ông chỉ nói úp mở rằng: “không phải là người trong cuộc, xin nhường cho người khác có đủ thẩm quyền hơn mình, bởi xét ra, câu hỏi ấy hẳn liên quan đến nội tình lịch sử một thời kỳ dài của Viện Văn học”.Thế nghĩa là Đặng Văn Sinh vẫn chưa phản biện đến cùng những gì Nguyễn Hòa đặt ra.

“CÓ LÚC ÂN HẬN...”

Viết phê bình về một tác phẩm đã rất đụng chạm, đụng chạm với tác giả, với nhà xuất bản và bạn đọc, nhiều khi phản ứng của họ rất dữ dội (thí dụ, phản ứng của Nguyễn Vĩnh Nguyên với nhà phê bình Đỗ Ngọc Yên-xin xem bài Những Nhà phê bình phong trào). Viết về những khuyết tật văn hóa như nhà phê bình Nguyễn Hòa đã làm còn khó biết bao, vì bài viết đụng chạm trực tiếp tới nhân cách, danh dự của người khác, và rất dễ làm họ tổn thương. Người viết dễ phải đối mặt với pháp luật. Hơn nữa nếu tâm người viết không trong sáng, cách viết không minh triết, trình độ tri thức không đủ để đối thoại, thì bài phê bình sẽ thành văn bản tác giả tự tố cáo mình, tự phơi bày nhân cách của mình trước thiên hạ...

Trong các nhà phê bình văn học đương thời, Nguyễn Hòa là người duy nhất theo đuổi mục tiêu phát hiện và lên tiếng trước nạn “đạo văn” trong văn chương, học thuật Việt Nam (tất nhiên ông còn nói về nhiều vấn đề văn chương, học thuật khác). Ông cho biết:”Tôi không tự giao cho mình nhiệm vụ phát hiện các “ông bà đạo chích”, phát hiện của tôi chỉ là ngẫu nhiên thôi. Tôi ham đọc, đọc cũng nhiều, lại có trí nhớ kha khá, nên trong quá trình đọc thi thoảng lại “túm” được một vị. Tôi biết cũng có người đọc nhiều, đọc rộng, nhớ tốt và cũng phát hiện ra “đạo văn” nhưng vì lý do nào đó mà không lên tiếng. Còn tôi, vì rất dị ứng với sự khuất tất nên tôi nói huỵch toẹt ra để mọi người nhận diện.”[13]

Tôi muốn lý giải do đâu ông chọn con đường này?

Nguyện Hòa cho biết:
“Trước khi về Văn nghệ Quân đội, tôi đã sống trong quân ngũ 24 năm. Nhìn chung mọi việc đã theo quy củ đúng luật nhà binh, “cơm ăn ba bữa, quần áo mặc cả ngày”. Ở Văn nghệ Quân đội, tôi không chỉ được làm việc yêu thích mà còn được thoải mái hơn. Nhưng khổ nỗi chất lính ăn sâu quá rồi, nên hay cứng nhắc!”

“Tôi đến với phê bình văn học hay nghiên cứu văn hóa hoàn toàn ngẫu nhiên thôi, tôi chẳng có chuẩn bị từ trước cũng không có ý định từ trước. Khi có thời gian khá dài tôi làm việc ở Khoa Triết học, mười mấy năm ở đấy, hồi ấy cũng rỗi, mình đọc sách triết học thì mới vỡ ra một thứ, nó là khoa học, nó cung cấp cho cách nhìn rất tốt, đặc biệt là những người làm khoa học thì cần phải có nó. Trong khi có nó rồi thì lại nhìn ra rằng, cần phải nhìn sự vật, cố gắng nhìn sự vật trong 5 nguyên tắc rất rõ ràng: khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, phát triển” [14b]

Như vậy có thể thấy phẩm chất nhà phê bình ở Nguyễn Hòa là tổng hợp chất lính và cách nhìn khoa học của triết học, hướng về đối tượng văn học (tác phẩm) văn hóa (con người trong xã hội). Đối với người lính, đúng-sai, lập trường phải rõ ràng, không chấp nhận sự khuất tất. Đối với cách nhìn khoa học-triết học, sự vật phải được tìm đến ngọn nguồn của nó. Cùng với cá tính “rất dị ứng với sự khuất tất nên tôi nói huỵch toẹt ra để mọi người nhận diện”, Nguyễn Hòa viết về nạn “đạo văn”, một hiện tượng văn hóa suy đồi của thời kinh tế thị trường (như nhiều sự suy đồi khác, chẳng hạn nạn tham nhũng)

Hồng Thanh Quang là người viết nhiều bài về Nguyễn Hòa (tôi đọc được 7 bài). Ông trò truyện, chia sẻ với Nguyễn Hòa về nhiều vấn đề văn hóa, văn học. Bởi cả hai cùng xuất thân là người lính. Hồng Thanh Quang có nhiều câu hỏi thẳng và hóc búa, đặt Nguyễn Hòa đối diện với lương tâm và phải nói thật về mình. Ông hỏi Nguyễn Hòa: [13]

-Trong hoạt động của anh, trong vai trò “Cây búa!” anh nhận một cách đùa cợt thế thôi, anh có nghĩ bao giờ mình đã “ngộ sát” không? Cách đây vài hôm, tôi có đọc được tin bác sĩ riêng của Michael Jackson cũng bị kết án tù vì tội ngộ sát. Ở trong cương vị của anh, trong làng văn, anh đã bao giờ “ngộ sát” ai chưa?
Nguyễn Hòa:
- Tôi chưa…
Hồng Thanh Quang:
- Anh đã bao giờ anh bị cảm giác anh đã nặng lời với ai đó quá?
Nguyễn Hòa:
- Có lúc có ân hận về chuyện đó chứ. Có lúc là gọi điện cho nhau…

Nguyễn Hòa kể:
“Có vị tình cờ thấy tôi thì nói: “Ông đánh tôi ác quá!”, tôi trả lời ngay: “Tôi bắt quả tang ông là “đạo chích” chứ đâu có đánh đấm!”. Té ra mình làm việc lương thiện, có trách nhiệm mà vẫn bị trách cứ!”[13-đd]

Nguyễn Hòa có ân hận vì có những lúc anh nặng lời với một ai đó. Nhưng anh cho biết: “Đã theo nghề thì theo đến cùng, tôi luôn nghĩ vậy, tuy cũng có lúc chán nản. Tôi chán nản không phải vì bị ghét, mà chủ yếu vì thấy việc làm của tôi nhiều khi như là công cốc. Người “ăn cắp” vẫn nhởn nhơ như không, vẫn đứng trên bục giảng bài, vẫn thăng quan tiến chức, có khi còn lớn tiếng phê phán…“đạo văn”![14]

Nguyễn Hòa tâm sự:
“Đời sống văn học xem ra ngày càng phức tạp, hỗn độn, với sự “lên ngôi” của sự phù phiếm kèm theo là các “giá trị giả” nên nhiều khi tôi chán ngán, chẳng thích viết phê bình nữa. Về xu hướng thì nhiều người thường thích khen chứ không thích chê. Chắc vì thế trong một số trường hợp, người ta viết như khen lấy được, rồi sử dụng vài lý thuyết nhặt nhạnh thiếu hoàn chỉnh từ nước ngoài để bảo lãnh cho lời khen. Khi ông tây đã bảo thế này, bà tây đã nói thế kia thì chẳng nhẽ còn dám phê phán?”

Tôi nghĩ, vị trí phê bình văn học của Nguyễn Hòa khó có người thay thế. Bởi tuy ông dùng “búa” để đánh vào nạn “đạo văn”…nhưng không phải ai cũng làm được như ông.

Tuy vậy, trong khi cọ sát với Inrasara, Nguyễn Trọng Tạo, GS Nguyễn Huệ Chi…Nguyễn Hòa để lộ ra những mặt hạn chế của một nhà phê bình phong trào mà ở độ tuổi của ông rất khó vượt qua.

Tháng 5 năm 2017


Nguồn: Bùi Công Thuấn-Phê bình văn học-Diện mạo của một thời
________________________
[1,2,3&4] Nhà phê bình Nguyễn Hòa: Bằng cấp không đảm bảo cho trí tuệ.
http://nongnghiep.vn/nha-phe-binh-nguyen-hoa-bang-cap-khong-dam-bao-cho-tri-tue-post2829.html]
[1b] Trần Ngọc Linh-vietnam.net- http://www.thotre.com/luutru/index.php?menu=detail&mid=40&nid=1090
[5] Khắc vía Tiến sĩ giấy: Nhà phê bình lừng danh Nguyễn Hòa! http://thvl.vn/?p=12448
[6] http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/dien-dan/item/2257702-.html
[7] Nguyễn Hòa-Thơ ‘nhập đồng’- http://phebinhvanhoc.com.vn/tho-nhap-dong/
[8] http://phebinhvanhoc.com.vn/thong-bao-cua-thuong-vu-hoi-nha-van-viet-nam/
[9] Inrasara-Nguyễn Hoà, nhà phê bình mù: vanviet.info/tren-facebook/nguyen-ha-nh-ph-bnh-m/
[10] Inrasara-Hậu hiện đại &Thơ hậu hiện đại Việt: Một phác họa
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7299
[11] Nguyễn Trọng Tạo-
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c92/n500/Co-nen-danh-thuc-tinh-xau-ho-trong-phe-binh.html
[12] Đặng Văn Sinh-GS Huệ Chi đạo văn hay nhà phê bình Nguyễn Hòa vu khống?
https://xuandienhannom.blogspot.com/2013/11/gs-hue-chi-ao-van-hay-nha-phe-binh.html+&cd=19&hl=vi&ct=clnk&gl=vn
[13]-Đạo văn-Một mất mười ngờ
http://vnca.cand.com.vn/dien-dan-van-nghe-cong-an/Nha-phe-binh-Nguyen-Hoa-Moi-nguoi-can-phai-tu-tao-lap-mot-day-than-kinh-xau-ho-324594/
[14] Hồng Thanh Quang có nhiều bài phỏng vấn, trao đổi với Nguyễn Hòa (7 bài)
a. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa: Có lúc có ân hận
http://daidoanket.vn/cung-ban-luan/nha-phe-binh-van-hoc-nguyen-hoa-co-luc-co-an-han/69916
b. Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Hoà: Việc của nhà văn trước hết là sáng tác
http://nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/nguyen-hoa-viec-truoc-het-cua-nha-van.html
c. Nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Hoà: “Cần chân thành và trung thực”
http://nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/nguyen-hoa-ban-ve-tinh-cach-viet.html
d. Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hòa: Đừng để "quân hồi vô phèng”
http://nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/nguyen-hoa-canh-bao-quan-hoi-vo-pheng%E2%80%9D.html
e. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa: Đồng hành với nhà văn
http://thuvientulap.org/sach-va-van-hoa-doc/nha-phe-binh-van-hoc-nguyen-hoa-dong-hanh-voi-nha-van.htm
f. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hòa: Nhà văn nên biết lắng nghe http://www.nxbcand.vn/default.asp?tab=detail&zone=72&menuid=29&id=5792&path=Nh%C3%A0_nghi%C3%AAn_c%E1%BB%A9u_v%C4%83n_h%E1%BB%8Dc_Nguy%E1%BB%85n_H%C3%B2a:_Nh%C3%A0_v%C4%83n_n%C3%AAn_bi%E1%BA%BFt_l%E1%BA%AFng_nghe
g. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa: Đừng nghĩ mình có quyền ban phát
http://daidoanket.vn/tin-tuc/cung-ban-luan/nha-phe-binh-van-hoc-nguyen-hoa-dung-nghi-minh-co-quyen-ban-phat-354661


INRASARA - NHÀ "PHÊ BÌNH LẬP BIÊN BẢN"

LÝ LUẬN VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC- DIỆN MẠO CỦA MỘT THỜI

INRASARA-NHÀ “PHÊ BÌNH LẬP BIÊN BẢN”
Bùi Công Thuấn




Inrasara là nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm. Ông cũng là nhà phê bình văn học chiếm lĩnh một khoảng trời riêng. Trong hoạt động văn học nghệ thuật, ông được khá nhiều giải thưởng: Giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam (1997- 2003). Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (Lễ Tẩy trần tháng Tư) năm 2005 tại Thái Lan; Giải thưởng của Trung tâm Lịch sử và Văn minh Đông Dương thuộc Đại học Sorbonne (Pháp) 1995 với công trình nghiên cứu Văn Học Chăm (tập 1); Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh (2009). Giải thưởng của Văn Việt về Nghiên cứu - phê bình (2015).

NHÀ PHÊ BÌNH VỀ VĂN CHƯƠNG ”HẬU HIỆN ĐẠI”

Ở lĩnh vực phê bình văn học, Inrasara viết nhiều về phê bình, về Hậu hiện đại và Thơ Hậu hiện đại Việt Nam. Ông rất quan tâm đến thơ trẻ Sài gòn. Ngòi bút của ông xông xáo trong nhiều vấn đề, chẳng hạn: Hậu hiện đại &Thơ hậu hiện đại Việt: Một phác họa; Nhập lưu Hậu hiện đại (10 kỳ); Giải minh hậu hiện đại… Văn chương trẻ Sài Gòn ở đâu? Năm 2014, 2015, Inrasara in: Nhập cuộc về hướng mở (Nxb Văn học), Thơ Việt, hành trình chuyển hướng say (Nxb Thanh niên), Thơ nữ trong hành trình cắt đuôi hậu tố nữ (Nxb Hội nhà văn). Đương thời, những bài viết của ông làm dậy sóng văn đàn vì ông đứng về phía thơ trẻ, đứng về phía những người nỗ lực cách tân thơ Việt sau “đổi mới”, và có thể ông tự hào về mình đi trước thời đại trong “hợp lưu” với thơ ca của người Việt hải ngoại.

Ngày nay (2017) đọc lại những gì ông viết về Hậu hiện đại và thơ Hậu hiện đại Việt đầu thế kỷ XXI, người đọc có thể tìm được tư liệu tham khảo do ông “lập biên bản” các hiện tượng văn học. Những bài viết của ông về Hậu hiện đại chỉ là lặp lại ý kiến của người khác, ông không phải là nhà phê bình lý thuyết nghiên cứu lĩnh vực này như Nguyễn Minh Quân, Nguyễn Đức Hiệp, Thụy Khuê, Lê Huy Bắc, Bùi Văn Nam Sơn…

Điều người ta nghi ngại Inrasara là, trong xu thế “cách tân” thơ Việt, Inrasara hướng ra bên ngoài (vọng ngoại). Ông hiện diện trên các trang web văn chương hải ngoại như Talawas, Tiền vệ, Hợp Lưu, Da Màu…Ông coi Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc Tuấn, (các tác giả viết về lý thuyết phê bình và văn chương Hậu hiện Đại ở Úc) là bậc thầy của mình. Ông thần tượng các tác giả người Việt hải ngoại như Đinh Linh, Đỗ Kh, Nguyễn Thị Hoàng Bắc…Ông đứng chung với những người mà bài viết, tác phẩm của họ có khuynh hướng chính trị chống lại Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Có thể ông cũng tự cho mình thuộc thế hệ nhà thơ, nhà phê bình “tiên phong”, nên coi thường những người sáng tác, phê bình mà ông cho rằng họ thuộc hệ mỹ học cũ…(theo tôi hiểu, đó là hệ mỹ học Xã Hội chủ nghĩa).

Thời gian là thước đo giá trị của những phong trào. Về thơ Hậu hiện đại Việt đầu thế kỷ XXI, tuy cổ vũ mạnh mẽ, song Inrasara phải công nhận thực tế này: “Có thể các sáng tác hậu hiện đại được sơ khởi bày ra ở trên, tạo cảm giác cho người đọc rằng chúng chỉ là những thử nghiệm dị hợm, một thái độ phá phách không hơn không kém. Cũng có thể lắm thế hệ nhà thơ hậu hiện đại hôm nay chưa nẩy nòi ra “tác giả” tài năng để tạo ra “tác phẩm” hậu hiện đại lớn. Thực tế, thơ hậu hiện đại Việt có đó, không thể chối bỏ. Nó đã khởi động. Nó đang xảy ra. Như một sinh thể vừa tự ý thức, thơ hậu hiện đại Việt đa phần chỉ như là một phản ứng lại lề thói thơ, nếp nhà xã hội đang gò bó nó. “Chủ nghĩa hậu hiện đại đúng hơn là một tiến trình đang tiếp diễn của sự kháng cự lại ý thức hệ chủ lưu”. Nó chưa là thành tựu, và “chưa đi đến đâu”, như vài phán định dễ dãi về nó như thế. Nên, chưa thực sự xâm nhập vào dòng chính lưu để chính nó trở thành chính lưu. Nhưng sự xuất hiện của nó buộc chúng ta nhìn lại quan điểm về thơ ca.”[1] Tuy phải công nhận sự thất bại của thơ Hậu hiện đại nhưng Inrasara vẫn còn hy vọng. Người ta thấy có hơi hướng thuyết ngoại vi-trung tâm trong tham vọng phê bình của Inrasara. Ấy là, ông tiên liệu và mong muốn thơ Hậu hiện đại (thuộc dòng ngoại vi) sẽ trở thành dòng chính lưu của văn học Việt Nam. Và nếu được như thế, hẳn ông sẽ là người có công đầu, và biết đâu lại không trở thành thủ lĩnh của một trường phái thơ (?).

Và đây là một thí dụ về thơ hậu hiện đại mà Inrasara ca ngợi. Tôi không thể tưởng tượng được rằng, một nhà thơ, một nhà nghiên cứu, một nhà văn hoá như Inrasara lại say mê nhìn ngắm, lắng nghe và ca ngợi “tiếng nước đái” trong bồn cầu của Nguyễn Thị Hoàng Bắc. và cho rằng việc Nguyễn Thị Hoàng Bắc ngồi đái trên bồn cấu là “giải phóng thân phận tòng thuộc phụ nữ”:
Inrasara viết:

“Không cần tuyên bố to chuyện mà, chỉ bằng một nhát dao, Nguyễn Thị Hoàng Bắc đã cắt đứt cái đuôi hậu tố “nữ”, rất tuyệt.

tiếng nước đái
nhỏ giọt
trong bồn cầu tí tách
thứ nước ấm sóng sánh vàng
hổ phách
trong người tôi tuôn ra
phải rồi
tôi là đàn bà
hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ
bây giờ
được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ
tương lai không chừng tôi sẽ
to con mập phệ
tí tách như mưa
ngọn cỏ gió đùa

Khởi đầu, hơi thơ “Ngọn cỏ” đi mạnh mẽ và trang trọng như bao bài thơ hiện đại khác. Người đọc đinh ninh sẽ bắt gặp nỗi gồng mình [phê phán hay tuyên bố gì đó đại loại] ở câu tiếp theo, như đã từng thấy nó biểu hiện ở thơ nữ trẻ mấy năm qua. Nhưng không, bài thơ bỗng chuyển hướng qua giọng phớt đời, khinh bạc rồi bất ngờ bẻ ngoặt sang đùa cợt đầy khiếm nhã! Ví vắng bóng “ngọn cỏ gió đùa”, bài thơ chỉ dừng lại ở ngưỡng nữ quyền luận hiện đại: nghiêm trọng và quyết liệt. Nhưng chỉ cần một làn gió, tất cả đã lột xác, bài thơ làm cú nhảy ngoạn mục sang bờ bên kia của mĩ học hậu hiện đại. Tính chất nghiêm cẩn của giọng thơ đã được tháo gỡ. “Ngọn cỏ” thời lãng mạn được Nguyễn Thị Hoàng Bắc giải phóng. Hãy để cho ngọn cỏ tự do đùa với gió mà không buộc nó phải chịu phận so đo trong tinh thần phân biệt đối xử với sự đái. Cả sự đái của đàn bà cũng được cởi trói, qua đó thân phận tòng thuộc của chị em được giải phóng.”[1b]

Nếu tài năng văn chương, năng lực phê bình thơ của Inrasara chỉ có thể ngang tầm với cái sự đái của Nguyễn Thị Hoàng Bắc (tức là cao hơn ngọn cỏ một chút) thì có thể hiểu chính cái gọi là “Hậu hiện đại” đã làm làm suy đồi một “nhà thơ” từng đạt nhiều giải thưởng của dòng chính lưu như thế nào. Đáng tiếc thay!


NHÀ PHÊ BÌNH “LẬP BIÊN BẢN”

Về phê bình văn học, Inrasara có tham vọng “lập thuyết”. Ông đề ra cái gọi là “Phê bình lập biên bản”[2]: “Lập biên bản có nghĩa là chấp nhận mọi hiện tượng văn chương xảy ra trong thời đại ta đang sống. Bày nó ra như nó là thế, tìm hiểu triết lí trên đó thơ văn đó nảy sinh... Các quan điểm sáng tác ấy chưa hẳn đã cùng lối nghĩ của tôi hay tôi đã đồng tình hoàn toàn với nó, nhưng tôi cố gắng nhìn nhận nó như nó là thế” (báo Văn nghệ, 24-5-2008)… Phê bình lập biên bản bao gồm ba loại, nói khác đi, nó được tiến hành theo ba hình thức khác nhau: Bàn tròn văn chương, Biên bản lập chậm và Phê bình [như là] lập biên bản.”

Inrasara cho rằng: “nhìn tổng thể ở Việt Nam hai loại phê bình phổ biến hơn cả, và được đặt cho cái tên: phê bình hàn lâm và phê bình nghệ sĩ.”[3].”Phê bình lập biên bản” ra đời nhằm bổ khuyết cho hai loại phê bình kia.

Inrasara cho biết đã lập biên bản được: “Hơn trăm tác giả - tác phẩm đủ loại, từ thơ truyền thống đến hậu hiện đại, từ thơ đổi mới đến thơ hậu đổi mới,… Không thuần nghiên cứu, cũng không hẳn phê bình mà cư trú lấp lửng giữa hai món này. Tạm gọi nó là Phê bình [như là] lập biên bản.

Và sau thất bại của phê bình lập biên bản, Inrasara xoay sang một kiểu phê bình khác. Ông gọi là “phê bình mở”. Ông lý giải: “Phê bình lập biên bản không còn có thể đáp ứng được sự phát triển trương nở đến vô cùng loại thơ này, cùng tốc độ cập nhật và tương tác đa dạng và nhanh nhạy của nó. Phê bình cần đến thái độ khác, phương cách khác, tại đó “kiểu tập thể phê bình” như Bàn tròn văn chương chỉ là một gợi ý ở phạm vi hẹp. Tôi gọi đó là Phê bình mở.”

Ông cũng điểm danh 9 căn bệnh của phê bình văn học Việt Nam đương thời: phê bình độn giai thoại, Phê bình bình và tán, phê bình chung chung, vô thưởng vô phạt; phê bình hũ nút; phê bình núp bóng; phê bình bè phái; phê bình quan phương; phê bình hàng hai.

Và Inrasara tự nhận: “Vài năm qua khi dấn vào cõi miền phê bình, tôi cũng không tránh khỏi lây nhiễm mấy thứ vi rút trên. Một/ một vài hoặc tất cả chúng nữa không chừng!/ Nên, viết là để cảnh giác chính mình trước hết.”[4]
Những nỗ lực của Inrasara là đáng trân trọng, song những gì ông đề xuất về phê bình, không có giá trị gì. Bởi ông không có trình độ để lập thuyết như Bakhtin, J.Sartre, Derrida…Cái mà ông gọi là “phê bình lập biên bản” chỉ là một thao tác nghiệp vụ của bất cứ một người làm công việc nghiên cứu nào. Đó không phải là một phương pháp phê bình văn học, càng không thể nâng lên thành một kiểu “lý thuyết” phê bình văn học có ý nghĩa dẫn đạo như Trường phái Hình thức Nga, Phê bình mới, phê bình Phân tâm học, Giải Cấu Trúc. Tất cả các mục điểm sách trên báo chí chính là “lập biên bản” tại chỗ sự ra đời của văn chương một thời. Còn cái ông gọi là “phê bình mở”, có lẽ ông bắt chước Umberto Eco tác giả của Tác phẩm mở (L'œuvre ouverte- 1962). Rất tiếc Inrasara không luận giải về “phê bình mở”, ông chỉ cho biết rằng, đó là kiểu “Phê bình cần đến thái độ khác, phương cách khác”.
Do đâu Inrasara thất bại trong “lập thuyết” về phê bình? Tôi ngờ rằng, ông chưa đọc lịch sử phê bình trong nước và trên thế giới. Ông chưa nghiên cứu xem những nhà “lập thuyết” đi trước ông đã khám phá những gì, họ có những thành tựu nào, có những khiếm khuyết nào. Trên cơ sở đó, ông đào sâu thêm hoặc đề xuất một lý thuyết mới. Ngay cả đến Giải cấu trúc của Derrida là một lý thuyết trung tâm của Hậu hiện đại, Inrasara cũng không bàn đến.

Nhiều người đã có ý kiến về “văn phê bình” của ông. Bài Đối thoại cùng Inrasara của Phạm Quang Trung phản biện bài viết Lặn sâu vào dân tộc để sáng tạo cái mới của Inrasara (Tạp chí Nhà văn số 5/2011) có những kiến giải cặn kẽ và chí tình: “tôi đã đọc và nghĩ khá kỹ về bài viết của nhà thơ Inrasara… ngẫm đi ngẫm lại thì lại thấy thật ra không có gì mới mẻ cả… vì nhiều người trước Inrasara đã bàn rồi, sâu sắc và thuyết phục hơn nhiều kia”; “Inrasara đang đo tài sản tinh thần của người khác bằng vốn hiểu biết quá nghèo nàn của chính mình thì phải?”; “Cái “tôi” của người viết từ đây bắt đầu lộ diện, ngày một lớn hơn, rõ hơn để rồi dường như lấn lướt tất cả cùng với truyền thống đáng tự hào của dân tộc Chăm mà anh tự xem là một đại diện, hơn thế một kết tinh.”[5]
Trong cuộc trao đổi trên báo Nhân Dân 2013, Anh Chi có Ðôi lời về văn lý luận phê bình của Inrasara[6]: “Inrasara viết lý luận phê bình theo cách rất hay kết luận mà không cần chứng minh gì cả…”; “Xin thật lòng nói với Inrasara rằng, cách phê bình của anh dễ khiến người đọc cảm thấy bị coi thường.”; “chúng tôi thật tình phải nói với Inrasara rằng, văn lý luận phê bình của anh rất không bình thường.”

NHÀ PHÊ BÌNH PHONG TRÀO

Inrasara được coi là nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, và ông đã được giải thưởng về lĩnh vực này. Nhưng BBT trang Champaka đã chỉ ra 21 sai lầm của Inrasara phải đính chính trong bài viết “Người Chăm và văn hoá Chăm ở Việt Nam” đăng trên web của đài BBC ngày 4-8-2015. Sau đó tác giả kết luận: “Phải nói rằng, Inrasara là nhà thơ tiếng Việt có tiếng tăm ở trong nước. Nói về công trình nghiên cứu về Champa, thì ông có công lớn lao để truyền bá văn thơ Chăm. Nhưng nói về nội dung của những công trình nghiên cứu về văn hoá, ngôn ngữ và lich sử Chăm, thì Inrasara là sư phụ của ngành bịa đặt và chế biến theo ngẫu hứng và quan điểm riêng tư của mình”[7]

Tôi đã đọc bài phê bình của Inrasara về tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm của Khôi Vũ [8] và lời bình bài thơ Chia của Nguyễn Trọng Tạo [9] mà ông đặt nhan đề là: “Bài thơ Chia của Nguyễn Trọng Tạo-cú hích cho lục bát Việt”. Ở cả hai bài viết này, tôi không thấy bóng dáng cùa lý thuyết phê bình nào được Inrasara vận dụng để đọc tác phẩm, kể cả cái ông gọi là “phê bình lập biên bản” hay “phê bình mở”. Cả hai bài đều được viết như kiểu phân tích tác phẩm trong nhà trường phổ thông. Và ông mắc vào chính những căn bệnh phê bình do ông chỉ ra.
Tôi thử lý giải xem tại sao một nhà phê bình viết rất nhiều về phê bình lại mắc những sai lần do chính mình chỉ ra. Chỉ có thể lý giải thế này: Năm 1977, ông học ĐHSP TP Hồ Chí Minh được một năm thì bỏ học, làm nông, đi, nghiên cứu và làm thơ. Tất cả vốn tri thức ông có là do tự học. Có nghĩa là ông không được đào tạo có bài bản (Tôi không có ý coi thường việc tự học nhưng trong thời đại toàn cầu hóa, một người muốn trở thành chuyên gia, cần phải được đào tạo sâu về ngành nghề của mình), thành ra Phạm Quang Trung mới đánh giá ông có “vốn hiểu biết quá nghèo nàn” và Anh Chi nhận xét “văn lý luận phê bình của anh rất không bình thường.”

Và tôi nhận ra, những giải thưởng ông đạt được do những công trình nghiên cứu của ông, một phần là do chính sách của Nhà Nước dành cho người con của dân tộc Chăm. Inrasara đã “tự thức” như thế này:

“Khi tôi nhận biết ra tôi là Chăm sinh ra tại Caklaing trong đất nước Việt Nam sống bập bênh giữa hai thế kỉ hai mươi và thế kỉ hai mốt, tôi chấp nhận định phận tôi, từ đó tôi dự phóng và hành động trong chân trời khả thể. Tôi nghiên cứu văn chương và ngôn ngữ Chăm, sáng tác thơ tiếng Việt và tiếng Chăm, phê bình trong nỗ lực khai mở vùng đất cho nhiều trào lưu thơ ca cùng tồn tại và phát triển, công bằng và lành mạnh. Dù vô nghĩa, và vô ích - trong vô cùng tháng năm giữa mênh mông vũ trụ này. Thức nhận trắng phớ như thế, nhưng tôi vẫn nỗ lực hết mình. Và vui thú. Cuối cùng thế nào rồi hơn nửa đời hư, tôi cũng có trong tay lưng vốn sự nghiệp. Tuy nhiên…

Một ngày kia tôi hốt nhiên quay lại nhìn mớ sách vở đứng chình ình nơi phòng trưng bày: Chúng có phải công trình của tôi, hay đó chỉ là thứ văn bản được chắp vá nên bởi vô vàn tiền văn bản để chính chúng trở thành tiền văn bản mới, trùng trùng duyên khởi sẵn sàng tạo tác thành các văn bản khác, như thể tuồng ảo hóa vô tận của phận chữ và kiếp người? Tôi là ai? Tôi biết gì? Tôi làm được gì? Không gì cả! Nhưng tôi vẫn phải hành động trong chân trời khả thể của định mệnh vô nghĩa mình xẹt qua lâu dài thời gian, nơi vùng đất tôi sinh ra và sống…”[10]

Với tôi, Inrasara chỉ là nhà phê bình phong trào với tất cả ưu điểm và hạn chế của kiểu nhà phê bình này. Bởi vì, là một nhà thơ, ông tạt ngang sang viết phê bình văn học, và ngay ở lĩnh vực phê bình văn học, ông không được đào tạo đến nơi đến chốn (ông chỉ học ĐHSP có một năm rồi bỏ học vì chán nản). Chính ông cũng nhận rõ những hạn chế của mình.

Có điều ông ảo tưởng về những điều tự huyễn hoặc. Ông tự huyễn hoặc về “sự biết” của mình khi phê phán Nguyễn Hòa là một “nhà phê bình mù”[11] và gọi Hoài Nam là nhà phê bình nhai lại [12]. Thế nhưng ngay đến chữ “nhà phê bình mù” ông cũng phải học Nguyễn Hưng Quốc!

Tri thức của nhân loại mênh mông, thực tại cuộc sống lại rất phức tạp, góc nhìn của một người khó có thể bao quát được. Triết gia Socrates (470-399 trc CN) từng thú nhận: “Tôi chỉ biết có một điều, đó là tôi không biết gì hết”. Inrasara thường nhắc đến Friedrich Nietzsche, Martin Heidegger, hẳn ông có biết Socrates!

Tôi chợt nghĩ, giá như Inrasara cứ làm thơ, cứ tạo cho mình một thế giới nghệ thuật riêng kết hợp nghệ thuật Chăm với nghệ thuật Hậu hiện đại, có lẽ ông có nhiều thành tựu hơn.

Tháng 5 năm 2017

Nguồn: Bùi Công Thuấn-Phê bỉnh văn học-Diện mạo của một thời

____________________
[1] Inrasara-Hậu hiện đại & Thơ hậu hiện đại Việt: Một phác họa
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7299
[2] Inrasara- Từ phê bình lập biên bản đến phê bình mở.
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16944
[3] Inrasara - Hành trình phê bình lập biên bản,
[4] Inrasara-Điểm danh căn bệnh của phê bình hôm nay
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=8635
[5] Phạm Quang Trung- Đối thoại cùng Inrasara
www.pqtrung.com/tac-pham-moi/i-thoi-cng-inrasara
[6] Tạm khép lại một cuộc trao đổi- http://nhandan.com.vn/cuoituan/item/20532402-bao-n%C4%83m-%E1%BA%A5y,-b%E1%BA%A5y-nhi%C3%AAu-ng%C3%A0y-gian-kh%C3%B3.html
[7] Sai lầm của Inrasara trong bài viết “Người Chăm và văn hoá Chăm”
http://www.champaka.info/index.php?option=com_content&view=article&id=1280:sqi-&catid=53:quan-im-vn-hoa&Itemid=60
[8] Inrasara đọc Lời nguyền 200 năm của Khôi Vũ
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=6448
[9] Bài thơ CHIA của Nguyễn Trọng Tạo – cú hích cho lục bát Việt
http://nguyentrongtao.info/2013/08/12/inrasara-binh-bai-tho-chia/
[10] Inrasara-Hòa giải và hóa giải ba loại nhà thơ hôm nay hay Thơ như là con đường
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13421
[11] Nguyễn Hòa, “nhà phê bình mù”
vanviet.info/tren-facebook/nguyen-ha-nh-ph-bnh-m/
[12] Đụng chạm đến Hậu hiện đại, Inrasara chửi Hoài Nam là... đồ nhai lại!
https://nguyendinhbon.blogspot.com/2014/12/ung-cham-en-hau-hien-ai-inrasara-chui.html