Thứ Hai, 17 tháng 4, 2017

PGS-TS ĐỖ LAI THÚY-NHÀ PHÊ BÌNH LAI GHÉP

Lý luận và phê bình văn học-Diện mạo của một thời
PGS-TS ĐỖ LAI THÚY,
Nhà phê bình lai ghép


Bùi Công Thuấn


PGS-TS Đỗ Lai Thúy


PGS-TS Đỗ Lai Thúy là Tiến sĩ Lịch sử Văn hóa Nghệ thuật, Phó Giáo sư Văn học. Ông viết nhiều công trình về văn hóa và phê bình văn học. Lã Nguyên nhận xét: “Nhìn vào nhan đề sách của Đỗ lai Thúy, độc giả có thể thấy rõ, trong hoạt động khoa học, phạm vi quan tâm của ông khá rộng, mở ra ở nhiều khu vực. Ông xuất hiện trước độc giả chủ yếu như một nhà văn hóa học. Ông có nhiều công trình nghiên cứu, phê bình văn học. Nhưng ngay ở đây, văn học chỉ là chất liệu khảo sát để ông đưa ra những kết luận về văn hóa”[1].

Tôi quan tâm đến ông với tư cách ông là nhà phê bình văn học. Ở ông, có sự lai ghép Văn hóa học với văn học, lai ghép Phân tâm học với Thi pháp học, lai ghép nghiên cứu hệ hình với cách nhìn truyền thống. Ông đề xuất nhiều ý tưởng trong đó có phương pháp phê bình ông gọi là phê bình văn học từ văn hóa: “thiết nghĩ, đã đủ điều kiện lý luận để nâng cấp phê bình văn học từ văn hóa thành một phương pháp với tư cách đầy đủ…Phê bình văn học dù một tác phẩm, tác giả hay một trào lưu đều phải tìm hiểu trước tiên là hệ thống văn hóa mà tác phẩm, tác giả hay trào lưu ấy thuộc vào.”[2]

1.NHÀ PHÊ BÌNH CÓ THAM VỌNG LẬP THUYẾT

Tác giả Lê Sử (khoa Ngữ văn- Đại học Vinh- Nghệ An) nhận xét Đỗ Lai Thúy là nhà phê bình Thi pháp học: “có thể nói Con mắt thơ là một công trình nghiên cứu phong cách các nhà Thơ Mới bằng con đường Thi pháp học… Trong phê bình, Đỗ Lai Thuý, trước hết, chứng tỏ mình là một nhà khoa học, ông đặt giả thuyết, vận dụng các nguyên lý của phê bình thi pháp học, tìm con đường, phương án giải quyết mới, xây dựng mô hình, nỗ lực vận dụng các thao tác khoa học… Mục đích là để khai phá ra những chiều kích thẩm mỹ mới của tác phẩm nghệ thuật”[3]

Lã Nguyên (PGS-TS La Khắc Hòa) thì nhận xét: “Đỗ Lai Thúy gắn bó với Phân tâm học đã hơn hai mươi năm nay và rất mực thủy chung với nó…Đỗ Lai Thúy đã góp phần đưa phân tâm học trở lại với nghiên cứu văn học Việt Nam, và ở những công trình nghiên cứu theo hướng ấy, ông đã tạo ra nhiều đột phá: Thứ nhất: Sự phát hiện phân tâm học trong chất liệu văn học. Thứ hai: Mở ra hướng phê bình thi pháp phân tâm học.”; “Đỗ Lai Thúy tự xếp mình vào nhóm “phê bình phân tâm học văn bản”[13]. Nhưng xem cách phân tích văn bản, thấy hóa ra ông vẫn trung thành với thi pháp học. Cho nên, có thể gọi phê bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy là phê bình Thi pháp Phân tâm học.” [1-đd]

GS-TS Trần Đình Sử nhận diện Đỗ Lai Thúy trong cuốn “Bút pháp của ham muốn” như sau: “Công trình này, theo tôi có thể gọi là thi pháp học phân tâm học, bởi phân tâm học là góc độ nghiên cứu, còn mục đích khám phá của tác giả là bút pháp, là thế giới nghệ thuật của thi sĩ.”[4]
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã định vị Đỗ Lai Thúy là nhà phê bình Thi pháp Phân tâm học. Theo tôi, ông tập trung phân tâm tác giả, không phải phân tâm văn bản.

Ông cho biết, nếu như cái khác là bản mệnh của nghệ thuật, thì, quy luật tạo ra cái khác, đó là tính lai ghép. Tính lai ghép trong phê bình cũng cái độc đáo trong ngòi bút Đỗ Lai Thúy. Ông vận dụng tất cả các phương pháp phê bình để thiết lập thành mô hình tiếp cận tác phẩm. Trong cuốn “Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy”, mô hình tiếp cận của ông gồm ba bước: Tiếp cận tiền văn bản, văn bản và hậu văn bản.

Ở mỗi bước ông thực hiện như sau:

Tiếp cận tác phẩm từ tác giả: Phê bình tiểu sử học, Phê bình văn hóa-lịch sử, Phê bình xã hội học, Phê bình phân tâm học.
Tiếp cận tác phẩm từ văn bản: Phê bình phong cách học, Phê bình Thi pháp học,Phê bình Cấu trúc-Ký hiệu học,Phê bình phân tâm học, Phê bình văn học từ hệ thống văn hóa.

Tiếp cận tác phẩm từ người đọc: Phê bình theo lý thuyết tiếp nhận, Phê bình hậu/ Giải cấu trúc. Phê bình Thông diễn học, Phê bình Nữ quyển luận, Phê bình hậu thực dân, Phê bình phân tâm học.

TS. Lê Thị Thanh Tâm (ĐH KHXH&NV TPHCM) nhận xét rất hay về cách viết “lẩy triết” của Đỗ Lai Thúy: “thao tác lẩy triết nhuần nhuyễn đến khó tin của tác giả khi động chạm các vấn đề tác giả, tác phẩm thơ.”; “Đằng sau (hay là phía trong) những bình luận phảng phất tinh thần triết lý của Đỗ Lai Thúy là sự chuyển hóa nhuần nhuyễn các phát ngôn triết học, tôn giáo mà tác giả đã lĩnh hội”; “Đỗ Lai Thúy đúng là người kể chuyện về số phận của nàng thơ bằng thi tứ.”; [6]

Sự nhận diện ngòi bút phê bình của Đỗ Lai Thúy không mấy khó. Đỗ Lai Thúy cũng lưu ý những giới hạn của sự định danh này. Ông nói về công việc viết phê bình văn học của mình: “…dù là ngưởi mê lý thuyết, nhưng những hiểu biết lý thuyết của tôi, chủ yếu là những tri thức ‘tiên thiên’, có tính chất siêu nghiệm, nên khi phê bình, tôi bao giờ cũng xuất phát từ thực tiễn tác phẩm, dựa vào trực giác nghệ thuật, chỉ đến khi cần xây dựng các mô hình nghiên cứu, cần khoa học, tôi mới cầu viện đến lý thuyết…”(Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy)

Nhưng nếu đọc kỹ Đỗ Lai Thúy, người đọc có thể nhận ra Đỗ Lai Thúy có một nỗ lực muốn lập thuyết trong phê bình văn học. Để thực hiện điều này, ông tập trung vào lập luận, ông cố phân tích vấn đề sao cho sâu sắc, có tính khoa học, viết đầy tự tin về mỗi luận điểm của mình (giống kiểu viết của Bakhtin, Sartre hay Derrida…), và phân tích tác phẩm minh họa cho luận thuyết. Cho nên điều mà Ts Lê Thị Thanh Tâm nhận xét rằng “Đằng sau (hay là phía trong) những bình luận phảng phất tinh thần triết lý của Đỗ Lai Thúy là sự chuyển hóa nhuần nhuyễn các phát ngôn triết học, tôn giáo mà tác giả đã lĩnh hội”, thực ra là cách viết có mục đích lập thuyết.

Tác giả Mai Anh Tuấn, người tự nhận mình là một người đọc thực dụng, khi đọc Thơ như là mỹ học của cái khác đã nhận xét về khát vọng lập thuyết của Đỗ Lai Thúy như sau:

khát vọng lập thuyết, với các bước cơ bản: đưa ra một quan niệm mỹ học của thơ, xử lí các nguồn thơ để mô hình hóa diễn trình thơ, chứng minh sự đặc sắc của thơ bằng việc khu biệt hóa những giá trị thơ ca tiêu biểu. Các đường hướng, thao tác này tập trung xoay quanh phạm trù “cái khác” - từ góc nhìn văn hóa, xã hội, triết học và nghệ thuật, đến góc nhìn mỹ học thơ ca…nhà phê bình này ý thức rất rõ việc phải hợp lí hóa, cấu trúc hóa quan điểm của mình”[7]

Chỉ cần đọc phần luận giải của Đỗ Lai Thúy về “cái Khác” thì có thể nhận ra tất cả mặt mạnh và mặt yếu về lý thuyết của ông:

Áp dụng vào thơ, đặc biệt thơ Việt, cái Khác còn thêm một số thuộc tính cụ thể hơn. Thơ, trước kia, là một tổ chức ngôn ngữ đặc biệt, không bình thường so với văn xuôi, nhất là với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Bởi thế, thơ, tự thân nó, đã là một cái Khác. Cái Khác này đồng nghĩa với cái tiểu ngạch (nhỏ, lẻ, phụ), cho nên luôn có nguy cơ bị cái chính ngạch (to lớn, đồng bộ, chính thức) đồng hóa. Cho nên, cái Khác, một mặt phải chống lại sức hút của quyền lực trung tâm của cái chính thống và chính thức để bảo vệ sự tồn tại độc lập của mình. Mặt khác, nó phải chống lại chính bản thân nó. Bởi lẽ, cái Khác, sau một thời gian bị nghi kị, ghẻ lạnh, bắt đầu được chấp nhận, rồi quảng diễn ra đại chúng, thì đã trở thành quen mòn, không còn là khác nữa. Vì thế, để bảo vệ mình mãi là một cái Khác, thơ trong tiến trình của nó, phải luôn luôn đổi khác. Thơ Việt, mỗi lần đổi khác, ngoài sự tự thân vận động của nó, bao giờ cũng phải có sự trợ lực, nhiều khi là cú hích quyết liệt, của các yếu tố bên ngoài. Thơ Việt, bởi vậy, luôn là sự lai ghép. Nó lớn lên bằng những yếu tố ngoại sinh, tức cái Khác của cái Khác. Thậm chí, có thể nói, thơ Việt khác từ trong trứng nước, từ ở những thành phần cấu tạo nên nó…

…Sự gặp gỡ giữa thơ và hệ hình hậu hiện đại không chỉ đưa cái Khác lên thành phạm trù chủ đạo của mỹ học hậu hiện đại, mà còn, quan trọng hơn, giúp ta nhận thức được chính cái Khác mới là thực chất của thơ. Bởi thế, có thể lấy cái Khác làm hệ quy chiếu để tư duy lại tiến trình thơ, từ đó, đưa ra một cái nhìn khác, một lối viết khác lịch sử thơ. Thơ Việt, cho đến nay, ít nhất có đến 11 lịch sử: 1) Thơ chữ Hán, 2) Thơ chữ Nôm, 3) Thơ quốc ngữ lúc giao thời, 4) Thơ Mới, 5) Thơ đầu kháng chiến chống Pháp, 6) Thơ Nhân văn và hậu Nhân văn, 7) Thơ thành thị miền Nam 1955 - 1975, 8) Thơ chính thống và chính thức, 9) Thơ Đổi mới và hậu Đổi mới, 10) Thơ đương đại, 11) Thơ hải ngoại…”(Thơ như là mỹ học của cái khác)


Ông ôm đồm, bao biện trong luận thuyết của mình mọi thứ lý thuyết (mà ông không ghi nguồn) chỉ để khẳng định “Chính cái khác mới là thực chất của thơ, và, có thể lấy cái Khác làm hệ quy chiếu để tư duy lại tiến trình thơ”. Có thể tìm thấy lý thuyết về Cái Khác (The Others) từ Freud, F. Saussure, trường phái Hình thức Nga, Edward Said, Derrida, Chủ nghĩa Hậu thực dân,…Vì thế cái Khác không phải là lý thuyết do Đỗ Lai Thúy đề ra. Nó cũng không phải là thực chất của thơ, càng không phải là hệ quy chiếu để tư duy lại tiến trình thơ. Khi nói đến bất cứ tác giả văn học nào (nhà thơ, nhà văn), nhà phê bình, nhà nghiên cứu luôn phải tìm ra cá tính sáng tạo của họ, phong cách của họ. Bản thân cá tính sáng tạo và phong cách chính là Cái Khác. Nâng vai trò của Cái Khác lên thành một lý thuyết để từ đó làm hệ quy chiếu nghiên cứu, phê bình văn học, tôi nghĩ cả về “lý thuyết và phương pháp” đều không có gì mới, mà chỉ là mượn khái niệm của người khác đề “làm mới” mình mà thôi.

Ông viết về nhiều nhà thơ trong nhiều cuốn sách khác nhau, mỗi cuốn cần có cái gì khang khác với cuốn khác. Thực ra, chỉ là khác về cách đặt tên sách. Những nhà thơ trong Bút pháp của ham muốn (Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều; Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm) cũng khác nhau như các nhà thơ trong Thơ như là mỹ học của cái khác (Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Thi, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Bùi Giáng). Trong Hé gương cho người đọc, Đỗ Lai Thúy cũng dùng Phân tâm học để lý giải về Nguyễn Du, như là dùng phân tâm học trong Bút pháp của ham muốn. Khi ông nhận định rằng: “Cái Khác ở thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ tự do”thì tôi hoàn toàn không còn nghi ngời gì nữa rằng ông không hiểu thơ Thanh Tâm Tuyền. Khi nói về thơ Hậu hiện đại, ông luận: “thơ hậu hiện đại đích thực không dừng lại ở cấp độ thủ pháp, mà đã tiến tới cấp độ quan niệm thực tại. Có như vậy mới sản sinh ra được cái Khác hậu hiện đại. Một cái Khác không phải là khác biệt, khác lạ trong quan hệ với cái ngoài nó, mà là một cái Khác trong quan hệ với chính nó, mang tính tự thân, là sản phẩm của một cá nhân tự lập và tự trị. Chính cái Khác này không chỉ cứu sống cái chết của tác giả, mà còn bội nhân tác giả, vì giờ đây người đọc cũng là tác giả. Một cái Khác như vậy, hẳn không nằm sẵn trong bài thơ, cũng không nằm sẵn trong đầu tác giả, mà được sinh ra trong tiến trình bập bênh giữa tác giả, văn bản và người đọc. Thơ trở thành mỹ học của cái Khác.”Những đoạn “lập thuyết” như thế này chỉ làm người đọc hoa mắt mà thôi, vì nó vô nghĩa và buộc tôi phải nghi ngờ sự thẩm thấu các lý thuyết văn học của Đỗ Lai Thúy. Bởi làm gì có cái khác “không nằm sẵn trong bài thơ, cũng không nằm sẵn trong đầu tác giả”. Trước đó ông đã khẳng định: “thơ, tự thân nó, đã là một cái Khác “. Nói cách khác, không có tác phẩm thì làm gì có tác giả và có người đọc!

Các nhà thơ khác nhau ở kiểu tư duy nghệ thuật, ở bút pháp, phong cách, ở cách sử dụng ngôn ngữ, ở nội dung tư tưởng, ở “cái tạng” riêng…, những điều này do cá tính sáng tạo làm nên và văn hóa, thời đại chi phối. Đọc câu văn: “thơ Việt khác từ trong trứng nước, từ ở những thành phần cấu tạo nên nó…”, thực sự tôi không hiểu Đỗ Lai Thúy định nói gì. Thơ Việt khác từ trong trứng nước là khác với cái gì? Và những thành phần cấu tạo nên nó là thành phần nào? Ông định nói về sự khác biệt của 11 lịch sử thơ Việt mà ông tự xếp loại chăng (Thơ chữ Hán, thơ chữ Nôm, thơ chữ Quốc Ngữ…). Nếu vậy, cần phải xem lại tính khoa học của việc xếp loại này.

Có thể nói việc lập thuyết về “Cái Khác” của Đỗ Lai Thúy không giúp lý giải bản chất nghệ thuật của thơ ca, vậy sử dụng thuyết này (của Freud, Saussre, Said, Derrida, lý thuyết tiếp nhận), Đỗ Lai Thúy có dụng ý gì? Đỗ Lai Thúy viết: “Mỗi cái Khác làm nên một lịch sử, một lịch sử thơ./…nhìn thơ Việt dưới dạng những lịch sử thơ có thể thấy được sự phong phú, đa dạng của thơ. Mỗi lịch sử đều có ý nghĩa và giá trị của nó, kể cả các dòng thơ nhỏ, lẻ, phụ mà trong cái nhìn nhất thể hóa không đáng coi là lịch sử. Đồng thời cho thấy sự vận động đa chiều và đan xen vào nhau của một lịch sử số nhiều. Cái nhỏ, phụ như là cái Khác rồi cũng lớn lên, phổ thông hóa, không còn là cái khác nữa, nhưng lại làm điều kiện cho một cái Khác khác ra đời. Như vậy, sự khác nhau của mỗi lịch sử chỉ là ở mức độ tự phản tỉnh của nó. Với sự đa lịch sử mà không có lịch sử nào là trung tâm như vậy, thơ Việt vẫn là một tổng thể, nhưng là một tổng thể mở: tổng thể phi tổng thể.”

Đoạn văn trên giúp người đọc nhận ra Đỗ Lai Thúy muốn viết lịch sử thơ Việt theo tiêu chí của Cái Khác, đồng thời, ông cũng giải trung tâm thơ Việt. Ông ôm vào thơ Việt tất cả mọi ngọn nguồn sáng tác trong mọi không gian, thời gian (không gian địa lý, không gian xã hội, không gian văn hóa, không gian song ngữ, không gian nghệ thuật hàng xóm, không gian công cộng, không gian mạng- trong nước, hải ngoại, trung tâm, ngoại biên, cái tiểu ngạch (nhỏ, lẻ, phụ), cái chính ngạch...). Đó là cái nhìn “hợp lưu”, đa nguyên, và cái nhìn Giải trung tâm của Hậu hiện đại.

Nguyễn Mạnh Tiến trong tham luận Tọa đàm ‘Đỗ Lai Thúy và Thơ như là mỹ học của cái khác” do Khoa Viết văn – Báo chí (ĐHVH HN) tổ chức ngày 26/4/2013 nhận xét: “Hiểu theo nghĩa đó, nhà thơ cách tân thơ – làm mới thơ, vì thế phải được định nghĩa như người làm khác đi mỹ học thơ. Và vì vậy, thay vì gọi là người đổi mới thơ, từ nay, ta gọi là người đổi khác thơ. Cái khác mang tính bổ sung, vì thế, từ đây, lịch sử thơ cho phép không loại trừ bất cứ nỗ lực đổi mới/khác thơ ở trong mọi không gian thơ Việt khác nhau. Cái khác, thậm chí, còn gọi mọi nỗ lực về cùng một mâm, nằm cùng một chiếu, đôn trên vai cái chung gọi là nền văn học dân tộc.”[5-đd]. Người đọc đương thời hiểu những ý nghĩa không nói ra của cả Đỗ Lai Thúy và Nguyễn Mãnh Tiến về những thực thể thơ Việt đương đại. Nguyễn Mạnh Tiến kết thúc bài viết bằng lời kêu gọi: “người ta có quyền nghi ngờ mỹ học của cái Khác, hay phương pháp hệ hình như quan niệm của Đỗ Lai Thúy. Hơn thế, tôi còn thiết tha muốn độc giả nên biết khoác cho sự đọc của mình đôi cánh của hoài nghi. Vì biết hoài nghi, đó là con đường vương đạo dẫn đến cái khác trong nhận thức...”

Sự nghi ngờ những “lý thuyết”, những nhận định của Đỗ Lai Thúy là có cơ sở. Sau đây là một trường hợp cụ thể:

Đỗ Lai Thúy đề xuất phương pháp tiếp cận văn học từ văn hóa. Ông viết: “...thiết nghĩ, đã đủ điều kiện lý luận để nâng cấp phê bình văn học từ văn hóa thành một phương pháp với tư cách đầy đủ. Phương pháp phê bình này có nhiều thuận lợi, bởi nó dẫn nhà phê bình (cũng như người đọc) đi từ cái đã biết đến cái chưa biết, từ cái biết nhiều đến cái biết ít, từ cái toàn thể đến cái bộ phận bằng con đường loại suy khoa học. Bởi lẽ, văn học với tính cách là một yếu tố của hệ thống văn hóa thì phải chịu sự chi phối hoặc sự quy định (chứ không phải quan hệ nhân quả đơn thuần của quyết định luận) của văn hóa. Phê bình văn học dù một tác phẩm, tác giả hay một trào lưu đều phải tìm hiểu trước tiên là hệ thống văn hóa mà tác phẩm, tác giả hay trào lưu ấy thuộc vào.”[8]

Mặc dù ông có dẫn Truyện Kiều, bám víu M.Bakhtin, thì những luận điểm của ông cũng bị nhà phê bình Nguyễn Hòa bẻ gẫy[9]: Từ cách Đỗ Lai Thúy đặt vấn đề không thỏa đáng, Nguyễn Hòa viết: “phải chăng để luận chứng cho sự ra đời của một “phương pháp phê bình mới”, ông đã dựa trên một tiền đề lý luận - thực tiễn còn mang màu sắc chủ quan và cảm tính?”; việc Đỗ Lai Thúy Lý giải quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nguyễn Hòa yêu cầu: “tôi nghi ngờ điều Đỗ Lai Thuý cho rằng văn học: “Sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì có thể dẫn tới sự thay đổi của hệ thống”. Kính mong PGS TS Đỗ Lai Thuý thử đưa ra một dẫn dụ để chứng minh trong một thời kỳ nào đó của lịch sử loài người, đã có lúc các sáng tạo văn học từng dẫn tới sự thay đổi của hệ thống văn hóa?”, rồi Nguyễn Hòa lấy làm tiếc: “Thật đáng buồn, là một tác giả như PGS TS Đỗ Lai Thúy - người thường tỏ ra khá am tường về văn hóa qua một số bài viết, lại không nắm được các vấn đề lý luận - thực tiễn có tính bản chất trên đây hay sao?”; Khi Đỗ Lai Thúy đưa ra luận điểm: “cách tiếp cận văn minh. Cho đến nay loài người đã trải qua ba giai đoạn văn minh lớn, cơ bản: Văn minh gốc tự nhiên, văn minh gốc kỹ thuật và văn minh gốc con người.”Nguyễn Hòa thưa lại: “Tôi đồ rằng, do chưa tìm hiểu quan hệ văn hóa - văn minh, nên PGS TS Đỗ Lai Thuý đã “gán” cho văn minh những ý nghĩa của chính văn hóa… Người ta nghiên cứu văn hóa để qua đó tìm hiểu văn minh, thì PGS TS Đỗ Lai Thuý lại đi theo chiều ngược lại, ông lấy văn minh làm “đột phá khẩu” để xem xét văn hóa.”

Nguyễn Hòa kết luận: ”Thiết nghĩ, tình trạng hời hợt, cảm tính, thiếu vắng một số căn cốt lý thuyết cơ bản về đối tượng cùng những luận giải mang màu sắc “hư vô” của PGS TS Đỗ Lai Thuý mà tôi phân tích trên đây có nguồn gốc từ việc ngay ở điểm xuất phát, ông đã không xác lập một khái niệm văn hóa có tính chất công cụ, bảo đảm cho sự nghiên cứu luôn luôn nhất quán về mặt khuynh hướng. Khái niệm ấy, có thể là do ông vay mượn của người khác hay do ông tự tạo lập, thì chí ít ra nó cũng không đẩy ông tới các kiến giải nhì nhằng, lúc thì coi văn hóa có cùng cấp độ với văn minh, lúc lại “gán” cho văn minh các phẩm chất của văn hóa, không nhận thấy hệ thống xã hội cũng là bộ phận cấu thành của văn hóa, đặc biệt là “sáng tạo” ra ý tưởng oái oăm về sự xung đột và chống lại của văn học đối với văn hóa…!”;

Cuối cùng, dẫu bài viết này là khá gay gắt, tôi vẫn không thể không công bố. Bởi tôi cho rằng đã đến lúc chúng ta cần đặt mọi “phát kiến khoa học” dưới sự soi chiếu của khoa học. Một ngày mà tinh thần phản biện trong khoa học còn bị suy giảm bởi thói quen “dĩ hòa vi quý” hay nể nang thì ngày đó, chúng ta còn phải đối mặt với những sản phẩm “giả khoa học” chỉ gây cản trở, nếu không nói là làm nhiễu loạn nhận thức chung của cộng đồng nghề nghiệp và công chúng.”

Không chỉ có nhà phê bình Nguyễn Hòa “phản biện” Đỗ Lai Thúy, GS-TS Trần Đình Sử cũng “phản biện” rất thẳng thắn về bài viết “Khi người đọc xuất hiện” của Đỗ Lai Thúy [10], dù trước đó ông vui mừng giới thiệu Bút pháp của ham muốn.

GS-TS Trần Đình Sử nhận định khái quát bài viết:

Trong bài này anh Thuý muốn xác lập cơ sở lý luận cho một hệ hình phê bình văn học hiện đại, tức tiếp cận tác phẩm văn học từ phía người đọc, giới thiệu vai trò quan trọng của thông diễn học đối với nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay. Đáng tiếc là nó có quá nhiều chỗ trái với logich khoa học và thực tế, chứng tỏ một lối làm việc (tuỳ tiện) đáng buồn…/ Quan niệm về “người đọc cổ điển” của anh là một đề xuất tuỳ tiện.”;
“Đỗ Lai Thuý thiếu kiến thức về người đọc trung đại và hoạt động đọc của họ cho nên có nhiều chỗ sai
…”

Hai là, quan niệm cho rằng người đọc cổ điển chỉ biết đọc thụ động, họ đọc văn như là “bắt vòi sang đấy (tác phẩm) là tiếp nhận được mọi thứ theo nguyên tắc bình thông nhau” (nguyên văn của anh Thuý!) cũng khó tin. Lí thuyết của Đỗ Lai Thuý chỉ là sự suy diễn bắt nguồn từ một quan niệm tiến hoá thô thiển, thiếu hẳn tri thức và quan điểm lịch sử…”

“Điểm thứ ba. Sự đối lập người đọc cổ điển và người đọc hiện đại theo bốn điểm như trên sở dĩ không đúng chủ yếu là do Đỗ Lai Thuý, tuy trích dẫn nhiều tên tuổi nổi tiếng phương Tây, song tôi nghĩ, anh chỉ mới hiểu chung chung, chưa cụ thể về hoạt động đọc và bản chất, cơ chế của sự đọc…”
“Điểm thứ 5. Đỗ Lai Thuý dựa vào lí thuyết tiếp nhận, thông diễn học, hiện tượng học để xác lập khái niệm người đọc hiện đại… Ở đây Đỗ Lai Thuý có ít nhất 3 ngộ nhận

Anh không phân biệt cái chung, cái riêng, chỗ thì đem cái chung quy cho cái riêng, chỗ thì lại đem cái riêng quy thành cái chung. Thật không có ai tư duy khoa học như Đỗ Lai Thuý.


GS-TS Trần Đình Sử kết luận: “Điều chúng tôi muón nói là làm khoa học thì không được tuỳ tiện, lại càng không được hư cấu.”

Cả nhà phê bình Nguyễn Hòa và GS-TS Trần Đình Sử đều chỉ ra sự thiếu kiến thức, lối làm việc tùy tiện và những “sáng tạo, hư cấu” ra những ý tưởng oái oăm, tạo ra những sản phẩm giả khoa học, của Đỗ Lai Thúy khi ông muốn “lập thuyết”.

Như vậy, xét từ cách tiếp cận thơ theo hệ hình, theo tiêu chí của Cái Khác, đến cách tiếp cận văn học từ văn hóa của Đỗ Lai Thúy, nhìn ở góc độ “lập thuyết”, Đỗ Lai Thúy còn cần nhiều thời gian nghiên cứu, nghiền ngẫm hơn nữa, và nhất là đừng tự huyễn hoặc với chính mình. Rất tiếc là thời đại đã vượt qua ông rất xa.

2.NĂNG LỰC CỦA NHÀ PHÊ BÌNH

Tôi quan tâm đến những bài phê bình văn học của Đỗ Lai Thúy. Bởi ở đó giúp tôi nhận ra tài năng của nhà phê bình.

TS Lê Thị Thanh Tâm cho rằng: “phần viết về Lê Đạt (theo đánh giá của cá nhân tôi) là đáng giá nhất… Đây là phần viết tốt nhất của Đỗ Lai Thúy bởi cách viết bông phèng thuần thục và cảm nhận tinh tế tuôn chảy không bị khựng lại bởi thuyết nọ thuyết kia”[6-đd]. Lã Nguyên thì cho rằng: “Các bài Đi tìm ẩn dụ Hoàng Cầm, Đi tìm thực chất thơ Hồ Xuân Hương, Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá là những áng văn xuất sắc nhất trong phê bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy

Đỗ Lai Thúy viết về nhiều nhà thơ (4 tập sách với trên 30 nhà thơ) sao chỉ có bài viết về Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hồ Xuân Hương được đánh giá cao? Có thể là TS Nguyễn Thị Thanh Tâm và PGS-TS La Khắc Hòa (Lã Nguyên) chỉ chọn ra những bài hay nhất để khen theo “chuẩn” riêng của mình. Đọc bao giờ cũng là cảm nhận riêng, không ai giống ai. Tôi sẽ trực tiếp đọc những gì ông viết để tránh bị “ám thị” bởi ý kiến giới thiệu của tác giả và của những người đã đọc ông, để tái khám phá Đỗ Lai Thúy qua văn bản.

Nguyễn Du là một tác giả đã được nghiên cứu nhiều, Đỗ Lai Thúy có khám phá gì mới? Bài Nguyễn Du từ “một ai đó” đến “không ai cả”[11] chứng minh nhận định này: “Nguyễn Du là một thiền sư-cư sĩ, vừa giống như mọi người, tuân theo lẽ thường tình, vừa khác với mọi người, sống theo sự giác ngộ của mình, dìm một ai đó trong không ai cả.”.

Đỗ Lai Thúy chọn bài thơ Ngã độc Kim cương thiên biến linh của Nguyễn Du để khẳng định con đường giác ngộ của ông: “Phương pháp mà Nguyễn Du chọn tu là độc tụng và chiêm nghiệm (Ngã độc Kim cương thiên biến linh = Ta đọc kinh Kim cương nghìn lượt). Đọc, đọc nữa, đọc mãi rồi sẽ sinh ra nghi tình, tức một tình trạng mâu thuẫn với lý trí, hay lẽ phải thông thường, mà không giải quyết được. Đây chính là công án thiền. Rồi hôm nào đó tình cờ gặp một duyên sống mà bỗng nhiên bừng ngộ. Nguyễn Du đã chứng ngộ như vậy khi đứng trước Đài đá phân kinh của thái tử Chiêu Minh nhà Lương.”

Nhưng do đâu Nguyễn Du tìm đến Phật để trở thành Thiền sư?, Đỗ Lai Thúy dùng phân tâm học để lý giải: “Thực ra, những mất người thân, mất điều kiện sống ổn định, mất tính vĩnh cửu của vương quyền khiến Nguyễn Du, nhìn từ phân tâm học Freud, rơi vào mặc cảm bị tước đoạt. Điều này tạo ra một trống rỗng lớn trong tâm hồn ông. Để lấp đầy khoảng trống nỗi sợ/nỗi sợ khoảng trống ấy, Nguyễn Du nhất định phải nhanh chóng trở thành một ai đó… Có thể nói, đến đây, về mặt tâm thần, Nguyễn Du chẳng những không lấp đầy được trống rỗng mà còn lún sâu vào tình trạng phân rã, hoặc phân liệt, hay khủng hoảng tâm thần. Chứng u uất, âu lo, trạng thái tâm thần bất định “đi không yên ổn, ngồi không vững vàng” là dấu hiệu của bệnh ủy hoàng (hystérie) như Trương Tửu đoán định. Đây hẳn là thời điểm Nguyễn Du tìm đến với đạo Phật,

Nhưng rồi Đỗ Lai Thúy lại hoài nghi: “Thực ra, việc Nguyễn Du đã là một thiền sư hay vẫn chỉ là một nhà nho, đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau, kể cả ý kiến các thiền sư-học giả Vạn Hạnh

Đỗ Lai Thúy lý giải việc làm quan của Nguyễn Du và đưa ra một nhận định làm sửng sốt những người đã đọc kinh Phật: “…ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Du, với tính cách là một thiền sư-cư sĩ, vẫn ra làm quan, vẫn sống cuộc đời quan trường như mọi người, nhưng khác mọi người ở chỗ dù tận tụy với công việc nhưng ông vẫn giữ được khoảng cách với quan trường, nghĩa là ông không ngụp lặn trong đó và không lấy sự thăng quan tiến chức làm mục đích sống của mình.”; May mắn là thiền sư-cư sĩ Nguyễn Du còn là một nghệ sĩ nữa, nên ông thấu hiểu và đầy cảm xúc với cuộc đời. Tức là bệnh ham muốn từ thuở một ai đó vẫn còn nguyên”

Thú thực là tôi không sao “nuốt trôi” những suy diễn hoàn toàn chủ quan, bịa đặt của Đỗ Lai Thúy khi ông lý giải về Nguyễn Du. Sự vận dụng Phân tâm học cùng với việc giải thích về kinh Phật, về sự giác ngộ của Nguyễn Du của Đỗ Lai Thúy là không thể chấp nhận được. Nguyễn Du bị “khủng hoảng tâm thần, có dấu hiệu của bệnh ủy hoàng (hystérie)”. Nguyễn Du đã giác ngộ mà “bệnh ham muốn từ thuở một ai đó vẫn còn nguyên” thì sao gọi là giác ngộ? Con đường giác ngộ của Phật là diệt dục điều sơ đẳng đó ai cũng biết.

Đỗ Lai Thúy gọi Bùi Giáng là “nhà thơ của các nhà thơ”[12], là “Thi sĩ-triết gia”. “Bùi Giáng ở những mười năm cuối của cùng thế kỷ ấy đã đi đầu trong việc mở ra một thời đại mới cho văn học Việt Nam, văn học hậu hiện đại”.

Đỗ Lai Thúy khám phá về Bùi Giáng: “Một trong những cách sống thể hiện sự nhất quán của thi cách và nhân cách Bùi Giáng đó là bệnh điên của thi nhân”, nhưng rồi Đỗ Lai Thúy lại tự phủ định: “chuyện Bùi Giáng có điên thật hay không. Tạm gác sang bên vấn đề bất khả giải”.
Thế nhưng Đỗ Lai Thúy lại nói khá kỹ về bệnh điên của Bùi Giáng: “Bùi Giáng, trước hết, rất ý thức về cái điên của mình”; “Bùi Giáng còn dấn thân quyết liệt vào nghề nghiệp điên. Bởi lẽ, thi nhân tìm thấy ở điên niềm hạnh phúc. “Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời”; “Điên của Bùi Giáng, bởi vậy, chính là một thái độ sống, một cách tồn tại ở đời.”;

Và Đỗ Lai Thúy kết luận: “Người điên cũng như người chứng ngộ đều cùng chung một cõi vô trí.”; “Ông như một Bồ Tát không bước hẳn vào cõi vô ngôn, vô trí mà vẫn ở lại với Lời để cứu Lời.”

Đọc bài viết của Đỗ Lai Thúy viết về Bùi Giáng. Tôi trông chờ ông giảng một bài thơ nào đó của Bùi Giáng, nhưng tuyệt nhiên không. Bài viết của Đỗ lai Thúy chỉ toàn là những nhận định võ đoán, Đỗ Lai Thúy không sao thâm nhập vào được thế giới tư tưởng và nghệ thuật của Bùi Giáng. Ngay cả luận điểm cốt lõi của bài viết là: Bùi Giáng là “thi sĩ- triết gia” cũng không được Đỗ Lai Thúy lý giải. Rất tiếc là, Bùi Giáng bị điên mà Đỗ Lai Thúy lại không dùng phân tâm học để đọc thơ ông. Đỗ Lai Thúy và Phân tâm học sẽ hòan toàn bất lực trước thơ Bùi Giáng vì thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng, tư tưởng của Bùi Giáng là tư tưởng của Hoa Nghiêm, cách diễn ngôn của Bùi Giáng là cách nói vô ngôn của Thiền.[13]

“Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.”

Bùi Giáng không hề là Hậu hiện đại như Đỗ Lai Thúy cố gán ghép cho ông. Thụy Khuê cho rằng: “Bùi Giáng tìm về người thầy Nguyễn Du như một cứu cánh. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất một chữ hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý một câu Kiều”[14]

Thanh Tâm Tuyền là một hiện tượng cách tân thơ ở miền Nam trước 1975. Thơ ông là một cõi riêng thách đố trí tuệ người đọc. Trong bài viết “Thanh Tâm Tuyền đi tìm tiếng nói” [15], Đỗ Lai Thúy, bằng thi pháp học, có những phát hiện tinh tế, sâu sắc về lớp vỏ chữ:

“Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền để tương ứng với một thực tại vỡ vụn, rời rạc, cũng trở nên rời rạc, vỡ vụn. Thi nhân tước bỏ hầu hết những từ nối, từ gối, từ cú pháp, khiến mạch liên kết giữa chữ và chữ bục đứt, các từ rời ra. Thi nhân cũng lược bỏ các ý chuyển tiếp, các hình ảnh chuyển tiếp, khiến mạch câu, đoạn bị đứt gãy đột ngột, bất ngờ. Như vậy, các từ, các cụm từ, các câu, các hình ảnh, các ý tưởng rời nhau, trở thành những đơn vị độc lập, tự thân, đứng cạnh nhau một cách ngẫu nhiên, tự sắp xếp với nhau hoặc liên hệ với nhau một cách tình cờ…
…Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền, vì thế, mang tính rời rạc, tự thân, chưa có nghĩa, hoặc chỉ mang nghĩa tự điển của vật liệu…”
“Bài thơ câu dài ngắn, tồn tại như những khả thể, đằng sau bài thơ được hiện hữu ấy còn thấp thoáng, ẩn khuất những bài thơ khác ở dạng tiềm/ tiền sinh. Câu thơ thì chảy tràn từ dòng trên xuống dòng dưới như những chiếc đồng hồ Dali. Còn từ thì luôn vượt thoát hấp lực của trường ngữ nghĩa nguyên thuỷ, do "trung tâm tạo nghĩa" sinh ra, để lang thang trong không gian bên ngoài trúc tìm nghĩa mới. Thơ Thanh Tâm Tuyền, vì thế, vượt qua ngữ học cấu trúc của Saussure để đến với ngữ dụng học của Witgenstein.


Đỗ Lai Thúy cũng nhận xét về Cái Tôi, về cấu trúc thơ, về nhịp điệu thơ của Thanh Tâm Tuyền. Ông lần đến tư tưởng sáng tạo của Thanh Tâm Tuyền là: “Sáng tạo, theo Thanh Tâm Tuyền, là sự nổi loạn

Tôi mong được đọc một bài Đỗ Lai Thúy phân tích thơ Thanh Tâm Tuyền, nhưng trong bài viết, tuy ông có dẫn chứng bài thơ Phục Sinh (để nói về Cái Tên và Cái Tôi của Thanh Tâm Tuyền), và bài Lệ đá xanh (để nói về nhịp điệu làm xô lệch cấu trúc bài thơ - nghĩa là những yếu tố hình thức thơ), ông không hề phân tích ý nghĩa bài thơ.

Tôi ngờ rằng Đỗ Lai Thúy không đọc được thơ Thanh Tâm Tuyền. Bởi thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ tư tưởng, mỗi bài thơ là một “dòng ý thức” về hiện sinh được diễn đạt bằng nghệ thuật Siêu thực. Cái Tôi trong thơ Thanh Tâm Tuyền là Cái Tôi với dòng ý thức trôi chảy, khác với Cái Tôi trong Thơ Mới là Cái Tôi tâm trạng. Đỗ Lai Thúy chỉ lần mò ở lớp vỏ chữ của thơ, ông không sao nhập vào được dòng ý thức và nghệ thuật Siêu thực. Ông mơ hồ rằng: “thơ Thanh Tâm Tuyền thao thiết một ý thức, ý thức hiện sinh, ý thức về thời cuộc, về tự do, về hôm nay, về một hiện thực cực thực, về thân phận nhược tiểu, về da đen, về Việt Nam và về thế giới”và sau cùng ông ca ngợi: “Thanh Tâm Tuyền cho đến nay, vẫn là một quả núi, đột khởi, sừng sững, gây kinh ngạc. Bởi, với những cấu trúc bị xô lệch, những nhịp điệu bị trôi chảy..., thơ ông đã đạt tới văn chương hiện đại giai đoạn cuối kỳ.”

Đỗ Lai Thúy viết về Thanh Tâm Tuyền như một con người siêu hình. Ông gạt bỏ tất cả bối cảnh xã hội, thời cuộc trong đó Thanh Tâm Tuyền chìm nổi. Ông cũng bỏ luôn mảng thơ Thanh Tâm Tuyền viết trong thời gian đi cải tạo, như vậy làm sao Đỗ Lai Thúy có thể hiểu tiến trình thơ Thanh Tâm Tuyền. Thi pháp học và Phân tâm học chỉ giúp Đỗ Lai Thúy hiểu đặc điểm thơ Thanh Tâm Tuyền về ngôn ngữ, nhịp điệu, cấu trúc, còn những tầng lớp khác của cấu trúc thế giới nghệ thuật thơ Thanh Tâm Tuyền, Đỗ Lai Thúy không đọc được.

Tôi định dừng đọc Đỗ Lai Thúy ở đây, song có người khen bài Đỗ Lai Thúy viết về thơ Hoàng Cầm, tôi đành phải dành ít phút để đọc Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm [16].

Đỗ Lai Thúy nhấn vào vài luận điểm: “Về Kinh Bắc là một giấc mơ. Không chỉ do Hoàng Cầm viết trong trầm mộng, mà chính vì thi phẩm có đường nét của giấc mơ”; “Giấc mơ bao giờ cũng ẩn chứa những ham muốn vô thức”; Mặc cảm Oedipe chi phối toàn bộ tập thơ Về Kinh Bắc nói riêng và cả đời thơ Hoàng Cầm nói chung”; “Ẩn ức tình dục không được thỏa mãn của thời thơ ấu đã phổ vào thơ Hoàng Cầm”; “Lá Diêu bông là ước mơ tình dục bất hợp pháp đã chi phối suốt cả đời Hoàng Cầm”

Do đâu Hoàng Cầm có mặc cảm Oedipe, Đỗ Lai Thúy lý giải: “Hoàng Cầm là một người có tuổi thơ không bình thường. Mẹ Hoàng Cầm là một cô gái làng Bựu, một làng quan họ nổi tiếng, Ông bà lấy nhau rồi chê nhau đến hơn mười năm trời… khi Hoàng Cầm sinh ra, mẹ nhà thơ phải vượt cạn một mình, rồi cũng một mình tần tảo nuôi con… Nhà thơ đã sớm cảm nhiễm cái gia cảnh của mình… Nỗi buồn ấy thực ra là mặc cảm Oedipe, yêu mẹ ghét bố, mà nhà thơ, chưa nói bấy giờ mà ngay cả bây giờ, vẫn chưa ý thức được

Đỗ Lai Thúy kết luận về thơ Hoàng Cầm: “Tóm lại, Về Kinh Bắc hội đủ các yếu tố của một thi phẩm siêu thực: giấc mơ, ẩn dụ, huyền thoại, viết tự động…, nhưng vẫn chưa phải là một tác phẩm đúng nghĩa của chủ nghĩa siêu thực như ở phương Tây

Thú thực là tôi thấy Đỗ Lai Thúy áp đặt quá đáng nhận thức chủ quan của mình về thơ Hoàng Cầm. Ông sử dụng Phân tâm học một cách méo mó để giải thích vấn đề. Từ hoàn cảnh riêng cha mẹ của Hoàng Cầm ông suy ra mặc cảm Oedipe, con trai yêu mẹ, ghét bố. Từ nhận định Về Kinh Bắc là một giấc mơ, ông dẫn đến ý tưởng Giấc mơ bao giờ cũng ẩn chứa những ham muốn vô thức”; ông cho rằng “ham muốn vô thức” ấy là “Ẩn ức tình dục không được thỏa mãn của thời thơ ấu” của Hoàng Cầm…

Ai cũng biết đâu phải giấc mơ nào cũng chứa những ẩn ức tình dục! Người ta sẽ hỏi, đứa trẻ được thỏa mãn ẩn ức tình dục như thế nào? Và được thỏa mãn ẩn ức tình dục, nên trẻ con không bị buồn bực dồn nén chăng. Mặc cảm Oedipe và Ẩn ức tình dục là hai khái niệm Phân tâm học khác nhau. Mẹ Hòang Cầm một mình tảo tần nuôi con, Hòang Cầm sớm cảm nhận gia cảnh mà thương mẹ, đó là một thứ tình cảm tinh thần, đâu phải là “ẩn ức tình dục”, đâu phải mặc cảm Oedipe, con trai ghét bố khi thấy bố gần gũi âu yêm mẹ! Bố Hoàng Cầm đi xa, bỏ rơi mẹ Hoàng Cầm, làm sao có mặc cảm Oedipe được!

Đọc bài viết, Tôi tự hỏi, chẳng nhẽ Hoàng Cầm làm thơ chỉ là để thỏa mãn ẩn ức tình dục của riêng nhà thơ? Vậy đâu là giá trị những sáng tạo nghệ thuật của Hoàng Cầm đối với cộng đồng xã hội, cộng đồng văn hóa và lịch sử thơ Việt?

Tôi thực sự hoài nghi cái cách mà Đỗ Lai Thúy sử dụng phương pháp Phân tâm học. Đỗ Lai Thúy chỉ dùng thơ Hoàng Cầm làm chứng cớ cho nhận định của mình về Hoàng Cầm, tức là dùng tác phẩm như vật chứng, lời chứng để quy kết về tác giả, hơn nữa là những quy kết áp đặt, giả định, chủ quan. Một phương pháp đọc thơ như vậy, liệu có đem đến những thông tin đáng tin cậy hay không? Tất nhiên tôi không phủ định những phân tích thi pháp của Đỗ Lai Thúy trong bài này. Ông có những phát hiện thú vị. Tuy nhiên đó chỉ là những phát hiện về vỏ chữ của thơ, còn giá trị tư tưởng, sáng tạo nghệ thuật đều bị Đỗ Lai Thúy bỏ qua.

3.“KẺ THÍCH CHIA RẼ DƯ LUẬN”[17]

Đỗ Lai Thúy đã viết về các nhà thơ: Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều; Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm (Bút pháp của ham muốn); Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Dương Khuê, Tú Xương, Tản Đà (Hé gương cho người đọc); Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Xuân Thu Nhã Tập (Mắt Thơ); Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Thi, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Bùi Giáng, (Thơ như là mỹ học của cái khác).

Nhìn vào công trình của Đỗ Lai Thúy, Mai Anh Tuấn cho rằng Đỗ Lai Thúy “cặm cụi trục vớt những danh thi”. Đúng là Đỗ Lai Thúy viết về những nhà thơ (hầu hết) đã thành người của thiên cổ. Tôi không thấy mặt những nhà thơ đương đại, những nhà thơ trong hệ hình Hậu hiện đại nối tiếp Bùi Giáng như ông nói, chẳng hạn Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, Văn Cầm hải, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Thúy Hằng, Nguyễn Hữu Hồng Minh... Chẳng nhẽ họ không có gì cho ông đáng viết?

Lý giải điều này thế nào?

Phải chăng đó là thái độ né tránh vì ông sợ phiền phức đối với người đang sống, vì nếu ông dùng Phân tâm học để phát hiện ra những “ẩn ức tình dục” của họ như trường hợp ông viết về Hoàng Cầm. Ông kể: “khi tôi viết bài về Xuân Diệu đăng đầu tiên trên một tờ báo điện tử, con trai Huy Cận đến tận toà soạn doạ sẽ kiện Đỗ Lai Thuý vu khống Xuân Diệu, vu khống Huy Cận. Tôi bắn tin, muốn kiện cứ kiện Tô Hoài trong Cát bụi chân ai trước.”. Đỗ Lai Thuý nói vui, rằng “người làm phê bình bao giờ cũng phải có bản lĩnh, lì lợm, thậm chí, mặt dày mày dạn” [17-đd]

Đỗ Lai Thúy không viết về những nhà thơ hệ hình Hậu hiện đại theo chân Bùi Giáng, là vì ông không đọc được họ (hạn chế về năng lực và phương pháp phê bình). Trước đó, ông đã không đọc được thơ siêu thực-dòng ý thức của Thanh Tâm Tuyền và thơ vô ngôn viết theo mỹ học Thiền của Bùi Giáng thì sao ông đọc được Siêu thực của Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, làm sao ông đọc được những tác phẩm thơ bị phá vỡ cấu trúc, phá vỡ không gian, thời gian, nhân vật và thi luật, và xen vào những ngẫu nhiên, hoang tưởng, những mảnh vỡ của thơ Văn Cầm Hải, Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly. Ngay cả thơ Tân hình thức của Khế Yêm mà ông khen ngợi, ông cũng không hề chạm vào…Bởi Thi pháp học và phân tâm học không giúp ông thâm nhập được vào thế giới thơ của những nhà thơ này. Cho nên ông khai quật thơ những ngưới đã chết (thời đại đã vượt qua họ) là vì vậy. Có lẽ phải chờ các nhà phê bình trẻ đến sau ông, khi họ được trang bị lý thuyết và kỹ năng bài bản hơn ông, họ thuộc thế hệ hậu hiện đại, lúc ấy may ra họ sẽ kế tục được ông.

Ông thích “chia rẽ dư luận” là vì, như GS-TS Trần Đình Sử và nhà phê bình Nguyễn Hòa nhận xét, ông “hư cấu” những lý thuyết không có cơ sở, ông đưa ra những nhận định áp đặt lên đối tượng phê bình trái với lý luận và thực tiễn (trường hợp Nguyễn Du, Hoàng Cầm chẳng hạn), và ở việc ông “xoay trục” liên tục từ Thi pháp sang Phân tâm học, rồi nghiên cứu hệ hình chuyển sang tiếp cận văn học từ văn hóa, nó lộ ra rằng chưa phương pháp phê bình nào giúp ông khám phá được bản chất, giá trị đích thực của sáng tạo nghệ thuật. Ông dùng tác phẩm làm chứng cớ để quy kết về tác giả, đó là một phương pháp phê bình đã lạc hậu lắm rồi. Ông đặt ra mô hình tiếp cận tác phẩm: Tiền văn bản-Văn bản-Hậu văn bản có vẻ “hoành tráng”, nhưng tôi không thấy ông thực hiện mô hình này trong công trình nào. TS Lê Thị Thanh tâm gọi lối viết của ông là một lối phê bình “âm ỉ sướng”, vì “Đỗ Lai Thúy mang đến cái sung sướng khoái trá cho người đọc qua những “chân trời” thơ tinh tế, sắc cạnh.” và nhận định về con đường của ông: “Từ kỹ năng, khả năng, đến bản năng, tài năng là con đường quá dài…” [6-đd].

Nói ông là người thích chia rẽ dư luận làm tôi nhớ đến những ý kiến “khá gay gắt” của Nguyễn Hòa, Trần Đình Sử [đd], và những lời nặng nề của Nguyễn Tôn Hiệt [18] nhận xét về ông.

Dẫu thế nào, có thể khẳng định điều này, Thi pháp học cùng với năng lực bẩm sinh (trực giác nghệ thuật) đã giúp ông khám phá được nhiều điều thú vị về nghệ thuật ngôn từ của các nhà thơ, từ đó ông có những trang viết bay bổng, giàu cảm xúc, có thể làm say mê người đọc.
Còn những điều khác…, như ông nói: “người làm phê bình bao giờ cũng phải có bản lĩnh, lì lợm, thậm chí, mặt dày mày dạn


_____________________

[1] Lã Nguyên-Đỗ Lai Thúy và phê bình phân tâm học Việt Nam:
https://languyensp.wordpress.com/2016/02/14/do-lai-thuy-va-phe-binh-phan-tam-hoc-viet-nam/
[2] Đỗ Lai Thý-Tiếp cận văn học từ hệ thống văn hóa:
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/cac-binh-dien-cua-van-hoa/2956-do-lai-thuy-tiep-can-van-hoc-tu-he-thong-van-hoa.html
[3] Lê Sử-Đỗ Lai Thúy và phê bình Thi pháp học
https://www.facebook.com/permalink.php?id=316117815185932&story_fbid=316383101826070
[4] Trần Đình Sử- Đỗ Lai Thuý và bút pháp ham muốn
http://vietvan.vn/vi/bvct/id1108/Do-Lai-Thuy-va-but-phap-ham-muon/
[5] Nguyễn Mạnh Tiến- Chú giải ngắn về phê bình văn học Đỗ Lai Thúy và Thơ như là mỹ học của cái khác,
Tham luận tại tọa đàm: “Đỗ Lai Thúy và Thơ như là mỹ học của cái khác” do Khoa Viết văn – Báo chí (ĐHVH HN) tổ chức ngày 26/4/2013)
http://vietvan.vn/vi/bvct/id3511/Chu-giai-ngan-ve-phe-binh-van-hoc-Do-Lai-Thuy-va-Tho-nhu-la-my-hoc-cua-cai-khac/
[6] Lê Thị Thanh Tâm-Phê bình thơ xác lập đẳng cấp thưởng thức nghệ thuật
http://vietvan.vn/vi/bvct/id3517/Phe-binh-tho-xac-lap-dang-cap-thuong-thuc-nghe-thuat-(*)/
[7] Mai Anh Tuấn- Đọc thơ như là mỹ học của cái khác.
http://vannghequandoi.com.vn/Diem-sach/Doc-Tho-nhu-la-my-hoc-cua-cai-khac-282.html
[8] Đỗ Lai Thúy-Tiếp cận văn học từ hệ thống văn hóa-Nguồn : Tạp chí VHNT số 305, tháng 11-2009
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/cac-binh-dien-cua-van-hoa/2956-do-lai-thuy-tiep-can-van-hoc-tu-he-thong-van-hoa.html
[9] Nguyễn Hòa- PGS TS Đỗ Lai Thuý: từ những tiền đề sai đến một kết quả… đúng!?
http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/dien-dan/item/2257702-.html
[10] Trần Đình Sử- Những luận lí khó tin (Đọc Khi người đọc xuất hiện của Đỗ Lai Thuý)
https://trandinhsu.wordpress.com/2016/03/26/li-thuyet-kho-tin/
[11] Đỗ Lai Thúy- Nguyễn Du từ “một ai đó” đến “không ai cả
vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/nguyen-du-tu-mot-ai-d-den-khng-ai-ca/
[12] Đỗ Lai Thúy-Bùi Giáng, nhà thơ của các nhà thơ:
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&News=4731&CategoryID=41
[13] Xin đọc: Bùi Công Thuấn-Bùi Giáng, ai người chia sẻ
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7197
[14]Thụy Khuê-Hiện tượng Bùi Giáng
http://thuykhue.free.fr/stt2/index.html
[15] Đỗ Lai Thúy-Thanh Tâm Tuyền đi tìm tiếng nói
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18198
[16] Đỗ Lai Thúy-Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cấm
http://tqtrung1010.blogspot.com/2012/09/tham-khao-o-lai-thuy-viet-ve-tho-hoang.html
[17]- Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy - Kẻ thích chia rẽ dư luận
http://www.tienphong.vn/van-nghe/nha-phe-binh-do-lai-thuy-ke-thich-chia-re-du-luan-618028.tpo
[18] Nguyễn Tôn Hiệt-Đỗ Lai Thúy và trường phái “luộc văn”
talawas.org/talaDB/showFile.php%3Fres%3D14440%26rb%3D0106+&cd=1&hl=vi&ct=clnk&gl=vn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét