TRÊN MẢNH ĐẤT NÀY (1962)
Tiểu thuyết của Hoàng Văn Bổn.
Nxb Đồng Nai 1984
Bùi Công Thuấn
Nhà văn Lý Văn Sâm và Hoàng Văn Bổn
Nguyễn Thành Lập cho rằng “cuốn
tiểu thuyết Trên Mảnh Đất Này được xem là tác phẩm thành công nhất của Hoàng
Văn Bổn”(1). Nhưng cả Nguyễn Kim Chi và Phan Cự Đệ đều cho rằng hiện thực
những ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở miền Đông Nam Bộ chưa được phản ánh
trung thực trong tác phẩm Trên Mảnh Đất Này. Phan Cự Đệ viết :”Một phần hiện thực về những ngày đầu kháng
chiến Nam Bộ đã bị bóp méo trong tiểu thuyết Trên Mảnh Đất Này”. Nguyễn Kim
Chi khẳng định mạnh mẽ hơn :”Dưới ngòi
bút của Hoàng Văn Bổn, một phần hiện thực về những ngày đầu của cuộc kháng chiến
nam Bộ đã bị bóp méo có thể gây nên những hiểu lầm có hại, đó là khuyết điểm chính về nội dung tư tưởng cuả
TMĐN”(2)
Một số phận
vinh quang và cay đắng
Nhà văn Hoàng Văn Bổn khi kể lại qúa trình tìm chủ đề cho tiểu thuyết
TMĐN đã nhắc lại những phút vinh quang,
những phút cay đắng của mình. Năm
1962, trong trại sáng tác quân đội do Tổng Cục Chính Trị mở, sau khi tìm được chủ
đề, chỉ trong 26 ngày đêm, HVB đã viết xong 400 trang tiểu thuyết TMĐN. Tác phẩm
được đề nghị đem lên đọc cho Ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng coi như tác phẩm đại
diện báo cáo kết qủa trại sáng tác.. tác phẩm được dư luận khen chê tới tấp.
Các quân binh chủng mời HVB đến nói chuyện và đài phát thanh truyền đi những buổi
gặp gỡ ây. Hội Nhà Văn mở một buổi phê bình TMĐN có đông người dự (3). HVB viết
kỹ chương thời thơ ấu của Ba Râu và cô Năm trong cảm xúc mãnh liệt “ vừa viết vừa lau nước mắt”…Một tác phẩm
đầy vinh quang như vậy, nhưng qua những
khen chê cũa dư luận cũng đem đến cho HVB “ một
cuộc đời đầy thương tích “. Phải chăng có sự mâu thuẫn giữa những cố gắng
chủ quan của tác giả và những gía trị thực của tác phẩm qua những đánh giá của
người đọc.
Điều ấy không có gì lạ trong lịch sử văn chương. Tác phẩm văn
chương khi đã được công bố trước công luận, nó sẽ tồn tại như một sinh thể độc
lập với tác gỉa. Nó tự nói tiếng nói bằng hệ thống hình tượng và cấu trúc, ngôn
ngữ của chính nó. Tác giả không thể bênh vực hay phủ định nó (R.Barthes : Tác
giả đã chết). Sinh mệnh của nó phục thuộc vào người đọc, mà trình độ đọc,
phương pháp đọc và mục đích đọc tác phẩm sẽ dẫn đền những kết quả khác nhau từ
người đọc này đến người đọc khác, thế nên sự khen chê khác nhau là không tránh
khỏi.
Giá trị của tác phẩm là giá trị tự thân của nó trong cuộc đời. Mọi
“vinh quang” hay “cay đắng” nhất thời không phản ánh giá trị thực của nó. Mọi
xuyên tạc hay ngộ nhận nhất thời rồi cũng sáng tỏ. Gía trị một đời văn của tác
giả là do tác phẩm đem lại. Nhà văn không thể tự phong cho mình bất cứ một danh
hiệu nào nếu những danh hiện ấy không do giá trị tác phẩm đem lại. Nhà văn dù
có lao động “đổ mồ hôi sôi nước mắt”, dù có “nếm mật nằm gai” chiến đấu bao
nhiêu năm đi nữa, dù có đổ tất cả tâm huyết một đời vào tác phẩm, thì tất cả những
điều ấy chưa hẳn đã làm nên giá trị tác phẩm nếu không có tài năng sáng tạo. Có
chăng là chỉ để ghi vào tiểu sử tác giả. Vậy đâu là giá trị thực của tác phẩm ?
“ Tính chân thực, tính tư tưởng và tính
nghệ thuật bao giờ cũng là tiêu chuẩn của giá trị tác phẩm Hiện Thực XHCN’(4).
Khi những tính chất ấy bị vi phạm thì hẳn là giá trị tác phẩm bị gỉam đi. Vậy
TMĐN, những tính chất ấy được thể hiện thế nào ?
Trước hết
xin xem xét “tính chân thực” của tác phẩm TMĐN.
M.Gorky nhấn mạnh điều này :”Cần
phãi làm cho người đọc cảm thấy rằng tất cả những gì mình đã đọc đều đã diễn ra
đúng như thế, không thể khác được “(5). Trong thư gửi M.Haccơnetxơ tháng 4.
1888, Ăng-ghen đã có một ý, nay trở thành kinh điển, như sau :”Theo tôi, ngoài chi tiết chân thực, chủ
nghiã hiện thực còn đòi hỏi một sự tái hiện chân thực những tính cách điển hình
trong những hoàn cảnh điển hình “(6) Ăng ghen coi những tác phẩm của Balzac
là “những thắng lợi vĩ đại nhất” của
chủ nghiã hiện thực và là một trong những” nét
vĩ đại nhất của ông già Balzac”(sđd)
TMĐN miêu tả hiện thực những ngày đầu kháng chiến chống Pháp ở làng
Bình Lăng, Nam Bộ trong khoảng thời gian “hơn ba tháng”. Nội dung xoay quanh mối
quan hệ giữa đội quân của Ba Râu với dân
làng Bình Lăng, nói chính xác hơn chỉ có mối quan hệ giữa Ba Râu và chính trị
viên Thuần. Theo Hoàng Văn Bổn, tình hình lúc đó đầy hỗn loạn. “khi giặc Pháp núp dưới danh nghiã đồng minh
Anh, Ấn nổ súng xâm lược Nam Kỳ ngày23.09.1945, toàn dân xứ Nam Kỳ hầu như đưa
ngực ra để bảo vệ nền độc lập và quê hương xứ sở. Những ngày đen tối ấy, ấu
trĩ, hỗn loạn, tả, hữu khuynh , vô chính phủ…các ông vua, ông tướng của mỗi
vùng đất Nam Kỳ gầm ghè, sát phạt nhau , tranh chấp triệt để…trên đường vượt qua hàng rào của quân xâm lược để đến
với độc lập tự do”(Văn Nghệ Đồng Nai-sđd)
TMĐN đã miêu
tả được một hiện thực quả thật là hỗn loạn,
vô chính phủ. Nếu không đặt hiện thực ấy
trong bối cảnh lịch sử cụ thể của nó, hẳn sẽ cho rằng “hiện thực bị bóp méo”. Dụng ý của Hoàng Văn Bổn là tả cho được sự “hỗn loạn” ấy để làm sáng lên chủ đề. Người
đọc quen nếp nghĩ về một hiện thực có tổ chức, có lãnh đạo thống nhất, có quan
điểm chỉ đạo sáng rõ, sẽ thấy TMĐN được miêu tả “tự nhiên chủ nghiã”, hoặc như kết án nặng nề của Nguyễn Kim Chi rằng
“ chưa thoát khỏi ảnh hưởng các khuynh hướng
nghệ thuật tư sản”(Tạp chí Văn Học-sđd). Những đánh giá như vậy chưa đúng với ý thức sáng tạo của nhà văn.
HVB đã ghi lại hình ảnh những đoàn quân rút lui như những “ đội quân thất trận”, tả tơi, đầy thương
tích ( chương II), cảnh hỗn loạn trong nội bô
nhân dân như cảnh dân xóm Miễu đánh nhau với dân xóm Chùa (tr.236, tập 2), cảnh đánh nhau giữa các đội quân kháng chiến (chương 23), những nhận thức mù mờ về
đường lối kháng chiến (Ba Râu không biết gì vế quan
điểm, đường lối của Đảng), nhân dân bị ức hiếp đủ điều,
không phân biệt được đâu là “bộ đội đàng
mình”. Ngay trong nội bộ đội quân của Ba Râu cũng đầy dẫy những sự rối loạn,
thí dụ sự thao túng của Út Nhỏ, cảnh các phân đội giành nhau khẩu súng máy FM( chương 19). Người đọc không thể tưởng
tượng nổi một đội quân Cách Mạng lại có thể là một đội quân ô hợp như vậy.
Câu chuyện rút lại, chỉ là câu chuyện về nhân vật Ba Râu với một vấn
đề là bám đất để đánh Pháp hay rút lui về thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hình ảnh giặc Pháp xâm lược không được miêu tả trực diện. Hình ảnh toàn dân trực
tiếp đánh Pháp cũng không được miêu tả. Những chuyển biến của thời cuộc và những
vận động ngầm của lịch sử cũng không được ghi nhận, chiều sâu tâm hồn và tính
cách con người Việt Nam ở những ngày
tháng ấy cũng chưa được khắc tạc.
Nhân vật Ba Râu có thể
được xem là nhân vật điển hình cho người nông dân Nam Bộ những ngày đầu kháng
chiến chống Pháp không ?
Ý chí quyết tử đánh Pháp,
thương yêu đồng đội chí tình, chí nghĩa ; tình đồng bào, tình quê hương
sâu nặng ; dáng dấp ngang tàng, dũng
mãnh, bộc trực ở Ba Râu như những nét điển hình. Nhưng Ba Râu còn quá nhiều nét
riêng không tiêu biểu, chẳng hạn tính anh hùng cá nhân (tr.147, tập 2) *, tính ghen tuông mù
quáng (tr.217, tập 2) , tính thô lỗ, tính mềm
yếu bên trong, không có được nhận thức chiến thuật chiến lược đúng đắn, tính
khinh đich, tính chủ quan và cách ứng xử bặm trợn (cảnh Ba Râu “đạp cửa xông vào, rút một cành tre toan quất
vào chân ông già” doạ nạt ông Bảy lò rèn –tr.50.tập
1). Tính cách Ba Râu chưa đạt đến một tính cách điển hình. Bởi vì một
tính cách điển hình bao giờ cũng đòi hỏi “ những
nét đặc trưng” , mà theo Ăng ghen thì “ đặc
trưng của cá nhân không những thể hiện ở việc làm mà cá nhân ấy làm, mà còn bằng
ở cách làm mà cá nhân ấy làm việc đó nữa”(7). Ở đây những việc Ba Râu làm
và cách Ba Râu thực hiện đều không mang được những nét đặc trưng của nhân dân
Nam Bộ. Nhân vật Ba Râu chưa đạt tới tính chân thực điển hình ở bề sâu.
Như vậy hoàn cảnh và nhân vật
của HVB đều chưa đạt được tính chân thực
điển hình, mặc dù ông có đưa vào nhiều chi tiết có thực của đời sống ( chẳng hạn,
tờ giấy thông hành cuả quân đội Hoà Hảo). Người đọc nhân ra chân lý nghệ thuật
chưa phù hợp với chân lý hiện thực. Cuộc sống như bị cắt xén đi, nhào nặn lại,
chưng cất lên thành một hiện thực khác, không thật, đúng hơn là một hiện thực
giả, gây phản cảm. Điều này không nằm trong ý thức sáng tạo của nhà văn, mà ở
cách viết, ở mặt thi pháp.
Chủ đề, tư tưởng của tác phẩm được HVB xác định là :”Cái vĩ đại của Đảng là tập hợp được các lực
lượng dưới ngọn cờ của Đảng, dưới ngọn cờ của dân tộc”(Văn Nghệ Đồng Nai-sđd) . Toàn bộ
diễn tiến câu chuyện, sự phát triển những mâu thuẫn đều quy về việc : Ba Râu phải
dẫn quân về chiến đấu dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, tiến hành chiến
tranh nhân dân. Đó mới là tư tưởng đúng. Mọi ý đồ bám đất, chiến đấu theo kiểu làm vua làm tướng một vùng, đều sai lầm và dẫn đến thất bại.
Chủ đề này
được thể hiện thế nào?
Chủ đề này bộc lộ ra từ hai phiá. Một là mâu thuẫn giữa Thuần và Ba Râu, hai là những
hệ qủa hành động chủ quan của Ba Râu. Giữa Thuần và Ba Râu luôn nổ ra những cuộc
tranh cãi quyết liệt về vấn đề : Thuần chủ trương rút quân về tập trung dưới cờ
Đảng để đánh lâu dài, bảo toàn lực lượng, còn Ba Râu quyết tâm bám đất, chiến đấu
đến cùng không rút lui nữa.. Mâu thuẫn này được triển khai trong suốt tác phẩm,
trở thành nút truyện chính. Đặc biệt ở chương 17, mâu thuẫn này được phát triển
cao độ. Cuộc tranh cãi nổ ra thật dữ dội.. Lúc thì Ba Râu “nổi giận đùng đùng”(tr.142.tập 2), lúc thì “run bần bật, bất
thình lình đứng dậy, trông như sắp xông đến móc họng chính trị viên Thuần “(tr.143. tập 2). Lúc thì “hai người
nhìn nhau hàng mấy phút liền, không chớp qua một lần. Thuần có cảm tưởng như
nhìn thấy đôi mắt xanh lè loài thú dữ nhìn gã thợ săn”(tr.144.tập 2) . Lúc thì Ba Râu “cười một cách độc địa, ghê rợn rồi chửi đổng
một câu”, lúc thì “rung rinh như một
con vật sống đang gào thét tìm mồi”(tr.145.tập
2). Thuần đã ngất xỉu trong cuộc tranh cãi. Tất cả những lý lẽ của
Thuần đều không đủ thuyết phục Ba Râu. Không bao giờ có một sự nhất trí giữa
Thuần và Ba Râu trong ban chỉ huy.. Mỗi người đi theo con đường riêng. Có lúc
tưởng như hai người phải chia tay nhau, nếu không có quan hệ kết nghĩa họ hàng
giữa hai người (tr.158.tập 2). Mọi ý nghĩ, hành động của Thuần đều là đúng, là tốt, mọi hành động
của Ba Râu đều đi đến thảm bại. Bản thân Ba Râu bị bắt, chết hụt, đồng đội hy
sinh quá nhiều, sau chỉ còn 30 người. Đến lúc ấy Ba Râu mới nhận thức được những
lời của Thuần, kéo quân về khu Lạc An. Thuần hy sinh.
Chủ đề tác phẩm đã được HVB
làm sáng lên. Con đường Ba Râu có thể đi đến đích trong cuộc kháng chiến chống
Pháp là con đường chiến đấu dưới cờ Đảng. Không thể một mình chiến đấu theo kiểu
làm vua một cõi. Thuần là biểu tượng
cho sức mạnh và sự kiên trì của Đảng
trong việc tập họp quần chúng cùng chiến đấu dưới ngọn cờ cách mạng và
dân tộc. Anh dồn tất cả sức lực vào cuộc đấu tranh để đem Ba Râu về dưới cờ Đảng.
Dù bị vết thương hành hạ suốt chặng đường
chiến đấu, anh cũng không lùi buớc, kiên
trì cho đến chết.
Tuy nhiên khi tính chân thực bị hạn chế thì cũng đồng thời làm giảm
hiệu quả của tính tư tưởng và gỉam sự
thuyết phục của tính nghệ thuật. Những hành động của chính trị viên Thuần chưa
đủ sức làm thay đổi tư tưởng của Út Nhỏ. Cũng vậy, Thuần không có ảnh hưởng gì
quyết định đối với Ba Râu. Thuần hoạt động đơn độc, không có bất cứ mối liên hệ
nào với tổ chức Đảng trong quần chúng và với tổ chức Đảng ở cấp cao hơn. Thuần
không có khả năng lãnh đạo và hành động. Việc tổ chức đội du kích của Tươi chỉ
được nói đến gián tiếp mà không được miêu tả trực tiếp như một thành công của
Thuần.. Thuần bất lực trong việc can dân xóm Miễu và xóm Chùa đánh nhau. Tất cả
những hành động ấy của Thuần cùng với sự yếu đuối thể chất đã làm gỉam vai trò
lãnh đạo của Thuần, làm mất đi sự thuyết phục của chủ đề.
Con đường trở về của Ba Râu không xuất phá từ sự thuyết phục của
Thuần, mà từ những thảm bại liên tiếp của Ba râu. Có nhiều nguyên nhân đưa đến
sự thảm bại ấy. Quân của Ba Râu ô hợp, hỗn loạn. Vũ khí thiếu thốn, sứt mẻ. Không
có chiến thuật chiến lược. Cách đánh của Ba râu là cách đánh liều mạng, đánh bắt
bí, đánh thí quân nóng nảy, thêm vào đó là bi kịch gia đình với cô Năm và mâu
tuẫn với Thuần. Lòng Ba Râu rối bời đau khổ, mềm yếu. Những yếu tố ấy đẩ Ba Râu
đến chỗ thật bại, dù Ba Râu có quyết tử bám đất. Sau cùng buộc phải rút về Lạc
An, không thể làm khác hơn nếu không muốn bị tiêu diệt hoàn toàn.
Ba Râu trở về chiến đấu dưới cờ Đảng không phải bằng sự giác ngộ
cách mạng, mà bằng sự thảm bại của chính Ba Râu. Sự triển khai mâu thuẫn giữa
Thuần và Ba Râu, giữa Ba Râu và cô Năm ( bi kịch gia đình ) không phải là giải
pháp nghệ thuật tốt nhất và phù hợp với thực tế để thể hiện chủ đề.. Người đọc
nhận thấy rất rõ đó là những mâu thuẫn giả tạo, được thiết kế một cách chủ
quan, không đúng với chân lý lịch sử. Tác giả không đạt được mục đích sáng tác
thông qua thế giới hình tượng nghệ thuật.
Ngôn ngữ nghệ
thuật của Hoàng Văn Bổn có đặc điểm gì trong Trên Mảnh Đất Này ?
Trước hết là sự cường điệu trong hầu hết các yếu tố nghệ thuật của
tác phẩm
HVB thích dùng từ láy để cường
điệu hoá sự miêu tả. Xin dẫn trong tập II: phun
phè phè (tr,112), ướt lóp ngóp, giẫm bành chạch, xoay vù vù
(tr.113), cười khành khạch (tr.124) nhìn chằm chằm (tr.131) nổ lung bùng, kêu vo vo, quay cuồng, rung rinh, rập rềnh (tr.223); hoặc dùng những động từ,
tính từ cường điệu : to bè (tr.113), đỏ ké (tr.115), nhảy lồng lên, trắng dã; vết
thương hoác miệng (tr.269), chua loét, hơn 15 đôi mắt
sâu hoắm, đỏ hoe (tr.286), những khối thịt rống lên quằn
quại, giật nẩy, bùng nhùng (tr.289)…Ở dòng văn nào của HVB, người đọc cũng gặp kiểu từ như vậy. Nó tạo
nên sự ồn ào trong giọng điệu và sự giả tạo của hiện thực được miêu tả. Miêu tả
một miền quê Nam Bộ nhưng rất tiếc là HVB chưa đem được vốn từ Nam Bộ vào tác
phẩm. Ngôn ngữ của HVB là ngôn ngữ Bắc bộ, đặc biệt trong việc sử dụng thành ngữ
như : dốt đặc cán mai, nhạt như nước ốc
(tr.265 tập 2), như điả phải vôi (174.tập 2)
Sự cường điều còn thể hiện trong nhiều chi tiết truyện. Các nhân vật
lúc nào nói với nhau, cũng “nói như gào”(129), “la hét lạc giọng” (133); chuyện một anh lính phơi quần bị gió xé toạc mất, trần như nhộng,
“hai tay che chỗ kín rượt theo gió”(tr.111, tập 1), hoặc bộ đội ăn cơm, “ có anh đang nhai cơm, bỗ hự một tiếng, ngừng
nhai, và lôi ra một con vắt vằn no máu”(tr119, t. 1)
; chuyện Thuần cắt tóc cho Ba Râu, máu nhỏ ròng ròng, lúc gần xong, “lưỡi kéo kia lại ngoạm thêm một miếng thịt
vành tai Ba Râu nữa”(tr52, t.2) những chi tiết cường điệu này làm hỏng tính chân thật của tác phẩm,
vì bút pháp hiện thực đòi hỏi những “chi
tiết chân thực” để tái hiện đời sống một cách chân thực.
Sự cường điệu cũng đưọc HVB miêu tả trong các tình huống truyện.
Các tình huống được làm cho căng lên, ào ào, cấp tập, đột ngột, không thật. Phải
chăng HVB muốn tạo kịch tính ? Chẳng hạn cảnh Bân vật nhau với thằng
Tây(119.t.2). Bân bị thằng Tây vật xuống, tìm dao găm để giết Bân. Bỗng Bân thấy
nơi bụng thằng Tây có một vết thương. Bân chỉ nó :- Mông xừ, mông xừ…vết thương
rộng hoác đút ổ bánh mì lọt tuốt. Thằng Tây nhìn xuống bụng mặt tái xanh. Bân
thoát được và hạ thủ nó.Nguyễn Kim Chi (tạp chí Văn Học –sđd) còn nói đến sự “lên gân cho tính cách nhân vật và cường điệu mâu thuẫn xung đột”. Phan Cự Đệ nói rõ hơn :”cường điệu một số nét ngổ ngáo dung tục của tính cách, dường như tác giả cho rằng có như thế nhân vật mới gân guốc, dữ dội, nhưng thực chất là nhà văn đã hạ thấp tính lý tưởng của nhân vật đưa ra một kiểu người thấp lè tè không giáo dục được ai”(sđd.tr 179). Sự cường điệu trong xây dựng nhân vật là có thật trong TMĐN. Điều này có thể xuất phát từ ý định xây dựng một nhân vật anh hùng kiểu “ côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Ba Râu có đầy đủ “trí dũng”, xông xáo, vào sinh ra tử như chơi, đánh phục kích táo bạo (chương 8), một mình đánh cận chiến giữa vòng vây kẻ thù (chương 16), bị giặc trói đem ra sông giết, Ba Râu lật úp thuyền giết giặc và trốn thoát ( chương 25). Ngoài phẩm chất “trí dũng” trên, Ba Râu còn có lòng yêu đồng đội thắm thiết, thuỷ chung rất mực, yêu quê hương, đồng bào như ruột thịt. Người đọc cảm động trước cảnh Ba Râu chôn cất các thương binh (tr.34.t.2), Ba Râu mút vết thương ưá máu của Thuần (146.t.2). Cũng cần lưu ý rằng, cho đến năm 1962, khi TMĐN ra đời, chúng ta đã có được một ý niệm khá đầy đủ về hình tượng người anh hùng kiểu mới “trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” (thí dụ Một truyện Chép Ở Bệnh Viện.1957 ). Nhưng Ba Râu chưa đạt được những phẩm chất ấy. Đây là một hạn chế trong ý thức thẩm mỹ của tác giả. Thực tế lúc ấy để lại dấu ấn không tránh khỏi trong trang văn HVB. “đạo quân ngổ ngáo coi trời bằng vung, coi Tây như cỏ rác cuả Hoàng Trường, Hoàng Hinh, chẳng kém Lỗ Trí Thâm, Lý Quỳ trong Thuỷ Hử…đạo quân vô cbính phủ của Hoàng Thọ, đầu cạo trịc lóc, đội mũ xẻ gáy, mang gươm Nhật…”(Văn Nghệ Đồng Nai, sđd)
Người đọc nhận thấy rõ nhân vật ba Râu không đáp ứng được mong mỏi
sáng tạo của tác giả. Nhân vật ấy còn mang
nhiều dấu vết của sự lắp ghép, đắp tượng, tô vẽ có chỗ quá tay, hoặc còn
thô mộc tự nhiên chủ nghiã. Ba Râu chưa bước ra khỏi trang sách như một hình tượng
hoàn chỉnh, có linh hồn, có bề sâu và tính cách thống nhất như một con người của
đời thực. Hạn chế này không do bởi tư tưởng, chủ đề, vốn sống ; mà bởi nghệ thuật thể hiện.
Một vài yếu tố nghệ thuật khác cũng gây mất thiện cảm với người đọc,
và bị các nhà phê bình nặng lời. Đó là những yếu tố tục, những hình ảnh, chương
đoạn “khêu gợi những thị hiếu tầm thường
chỉ thích hợp với một số ít người còn vướng cái khiếu thẩm mỹ sa đoạ của giai cấp
tư sản”(Nguyễn Kim Ch-sđd). Thực chất vấn
đề này thế nào ?
Trong các chi tiết miêu tả, trong lời nói nhân vật, HVB thường nhắc
tới những yếu tố tục như : cứt đái, mông đít, chỗ kín, chửi thề. Chẳng hạn , “chạy vãi cứt đái ra “(tr.8/1) ; “suốt đêm hôm mà còn chưa’đã’ à”(tr.14) ; “phải đổ cứt đổ đái, giặt tã
lót và quần áo đàn bà”(tr.15) ; “cô em chớ buồn phiền mà
làm gì ! Đời chó đẻ ! còn chó đẻ nưã”(tr.91) ; Thằng Tây trắng bị đạn mất
một mảng mông đít, run rẩy đi ra”(tr.135) ; “đéo mẹ cả nhà thằng chánh
mật thám “(tr.134) ; “khi tổ quốc lâm nguy thì ru rú trong đít vợ,
tao mà biết như vậy thì tao thiến quách mày đi”(tr.19/2) ; “cái mặt mày thì có mà giết Tây trên bụng vợ”(tr.20/2) ; “đám con gái tắm còn ở truồng, chưa biết mắc cỡ, cái quân chó má ấy
chúng cũng không từ”(tr.22) ; “cuối phân đội, một chiến
sĩ thoáng thấy bóng đàn bà, hoảng hốt cúi chạy lom khom hai tay che chỗ kín
“(tr.37) (9) Đáng kể nhất là hình ảnh
Ba Râu thò tay bắt điả đeo ở chỗ kín của cô Năm lúc nhỏ được nhắc lại nhiều lần
(10). Hình ảnh cô gái bị Tây rượt rách toạc một vạt áo.”Cô vẫn để nguyên chiếc vú bên trái vun đầy, chắc nịch và nửa khung ngực
trái nở nang, tràn trề thấm máu “(136/1), hình ảnh một cô gái lẳng lơ trong tay thằng Tây phòng nhì : ”thân thể loã lồ, ngồn ngộn với những ngấn thịt
trắng như hoa nhài của cô gái lẳng lơ. Cô ta cứ tô hô lim dim mắt chờ tên phòng
nhì rít vội vảng nửa điếu thuốc cuối cùng, rồi trườn lên, ngoạm đầy miệng chiếc
vú bên trái…Út Nhỏ đang mải ngắm thân thể người đàn bà còn nằm đấy đón chờ…”(tr.59/2)
Việc sử dụng
những yếu tố tục này nhằm mục đích gì, và để đạt hiệu quả nghệ thuật nào ? Trước hết, bản thân những yếu tố tục, tự nó không có gì đáng
trách. Vấn đề là nghệ thuật sử dụng nó.Chúng ta gặp khá nhiều những yếu tố như
vậy trong văn học dân gian, trong thơ Hồ Xuân Hương…, và trong cuộc sống hàng
ngày, có nhiều người nói tục. Phải chăng HVB muốn đem ngôn ngữ “tươi nguyên”.
“chân thực” của đời sống vào tác phẩm, nhằm tạo nên tính nhân dân? Hay việc
miêu tả như thế là thuộc về “cái tạng riêng” của con người và ngòi bút HVB?
Tôi không tin là HVB muốn “khêu
gợi những thị hiếu tầm thường nơi người đọc” như các nhà phê bình đã lên
án. Đúng là những yếu tố tục (nêu trên) đã làm giảm chất văn chương, chất nghệ
thuật của tác phẩm, làm cho người đọc khó chịu, mất cảm tình với tác phẩm, nghi
ngờ thực tâm ngòi bút của tác giả. Xin lưu ý những yếu tố tục chỉ có trong TMĐN
( ở những tác phẩm sau của HVB không có ). Có lẽ đó là một thử nghiệm cách viết
chăng, cách viết về quần chúng, viết cho quần chúng những gì là chính quần
chúng, mộc mạc, chân chất, có phần tự nhiên chủ nghĩa. Nếu quả là như vậy, thì
đó là một ngộ nhận. Bởi vì tính nghệ thuật mới làm nên giá trị tác phẩm, không
thể vì tính quần chúng mà không quan tâm đến tính nghệ thuật.
Một đặc điểm
nghệ thuật khác của ngòi bút HVB trong TMĐN là miêu tả cách điệu như “cải lương”, nghiã là nó chỉ có thể được diễn trên sân khấu Cải
Lương, khó có ở ngoài đời.. Chẳng hạn cảnh giết tên Tư Cầu Muối (tr.105/I)
không khác gì một màn kịch lớp lang giật gân và hài hước ; Cảnh hai thương binh,
anh mù cõng anh què đánh gươm với Sáu Võ Vườn (tr201/II) ; cảnh Sáu Võ Vườn giả
gái để hỏi tội Út Nhỏ(tr.206/II) ; Cảnh Thuần trước lúc chết : Thuần đứng thẳng
giữa vòng vây mà chiến đấu từ 4 giờ sáng, một cánh tay gẫy nát, giữa ngực và bụng
ông 5 vết thương thi nhau phun máu, gặp Ba Râu, ông ngất đi, rồi phút chốc lại
vùng ngồi dậy rất gọn và nhanh nhìn xác giặc, âu yếm nhìn anh em, rồi lại ngất
đi. Nghe tiếng Thảo gọi, Thuần lại tỉnh, “đôi
mắt Thuần hoàn toàn trong sáng như bầu trời trên đầu” mà trước đó thì “đờ dại, đỏ ngầu”. Thuần lại nói chuyện với
Ba Râu, rất bình tĩnh và sảng khoái. Ông lại cười, “nụ cười rất hóm và rất lành. Ông đưa tay phải lấy điếu thuốc lá trên
môi một chiến sĩ, đưa lên miệng ngắt làm đôi, chia cho Ba Râu một nửa”. Thuần
nghe như vết thương biến mất, người tỉnh táo, lâng lâng. Nhưng chỉ sau vài ba
câu nói nữa thì Thuần chết. Những cảnh như thế không thể có trong đời thực. Nó
làm người đọc buộc phải nghi ngờ về tính chân thực hiện thực ( bởi vì tác phẩm
được viết bằng bút pháp hiện thực, không phải loại truyện hư cấu –fiction)
Trong TMĐN, ý thức về thời gian và không gian nghệ thuật không rõ ràng.
Tác giả không tạo ra được hiệu quả nghệ
thuật trong việc miêu tả không gian và thời gian. Tuy HVB có ghi lại được hình ảnh thiên nhiên Đồng Nai,
sông nước, cánh đồng, một vài sinh hoạt của dân, nhưng không gian bối cảnh của
câu chuyện, nơi nhân vật đi đứng, hoạt động lại là một không gian hẹp và được
miêu tả làm cho rối rắm, mất phương hướng. Nếu đặt trên một bản đồ cụ thể, người
đọc không thể hình dung nổi nhân vật đã đi đứng hoạt động ở khu vực nào. Chỉ biết
khu vực ấy có sông Đồng Nai, cách thị xã Biên Hoà không xa, có một con đường độc
đạo và rừng thì mênh mông. Có lúc nghe rõ tiếng trẻ khóc và giọng ru của bà mẹ ở
bên kia sông (chương 25), vậy
mà chạy loanh quanh mãi trong rừng, Ba Râu không thể đi cứu Thuần, đã vậy còn bị
du kích của Tươi xét hỏi và đụng độ lớn với đội quân của người râu dài lạ mặt để
bị bắt. Người đọc không thể tưởng tượng ra nổi nơi đóng quân của Ba râu (chương
23). Phải chăng tác giả cố ý miêu tả một không gian không thực,một không gian rắc
rối, đề nhân vật xuất hiện thần kỳ và biến đi cũng thần kỳ, kiểu tiểu thuyết kiếm
hiệp kỳ tình chăng?
Thời gian nghệ thuật trong TMĐN cũng mơ hồ như không gian nghệ thuật.
Nhân vật lúc nào cũng hành động vào ban đêm , “tối mịt mù”. Có lúc “tối từ
ven rừng tối ra”(tr.31/I), lúc các chiến sĩ ngáy vang “dọc theo con suối tối lờ mờ”(tr.33). Ba Râu đi tìm ông Bảy Lò Rèn
trong bóng tối (tr.50). Thuần dẫn Cô Năm về đơn vị, “họ đi trong đêm, men theo những xóm làng vắng lặng”(tr.141). Ba Râu
đào huyệt chôn tử sĩ lúc “trăng đã lên rồi”.
Chương 11 mở đầu bằng cảnh “sắp cuối đêm”(tr.32/II).
Chương 12 mở đầu :”tháng mười chưa cười
đã tối, cũng có nghiã là ngày ngắn đêm dài” (tr.46/II). Út Nhỏ và Huy đi bắt
thằng Tây phòng nhì “lăn lộn suốt đêm như
trâu gìa kéo cày”(tr.57). Bi kịch gia đình của Ba Râu với cô Năm cũng diễn
ra ban đêm “trong ánh lửa run run, vàng
nhạt”(tr.210). Ba Râu và Long bị bắt trói trong đêm mưa (tr.269)… tuy thời
gian là ban đêm, nhưng cảnh vật, con người
lại được miêu tả sáng rõ như ban ngày. Bối cảnh đêm không tạo được hiệu
quả nghệ thuật nào đáng kể. Không gian và thời gian trong TMĐN mới chỉ là yếu tố
chất liệu, chưa trở thành yếu tố nghệ thuật phục vụ cho việc khắc hoạ nhân vật
và thể hiện chủ đề tư tưởng, không đáp ứng yêu cầu cuả bút pháp hiện thực Xã Hội
Chủ Nghĩa
Trong miêu tả, HVB sơ ý để lộ một số chi tiết vô lý, làm người đọc
phải ngẩn ngơ. Chẳng hạn, trang 124tập II, tác giả vừa viết :”Rất tiếc là bầu trời đêm nay lại thiếu một mảnh
trăng”, thì ngay đó (tr.125), tác giả lại viết :”Bóng nàng Hằng Nga dưới dòng suối êm ả vẫn nghiêng mặt cười duyên”.
Hoặc, Long bị thương nặng ở chân, “anh
đang choáng váng, xây xẩm mặt mày, vết thương phía sau nhói mấy lượt. Từng đợt
nhức buốt làm tê dại hai đường gân chân, giật liên hồi hai dây chằng bên cổ.
Long cố cắn răng thật chặt, quyết đứng vững bằng chân bị thương, khiến từng giọt
máu tươi rớt xuống đất”(tr.131/II). Rồi liền sau đó (tr.132) ”dọc con suối tắm ánh nắng, lượn vòng, Long bước thoăn thoắt gần như chạy
“. Đáng kể nhất là hình ảnh “cô gái mặc
áo trắng bị giặc bắn đứt vạt áo trong trận phục kích mía “ (tr.296/II) lúc xe tăng ập đến, chúng quạt
đại liên bụi mù, lấp cả dấu chân dấu tay chỗ cô gái vừa bò, “chỉ còn lại đấy nửa vạt áo trắng từ ngực trở
xuống lủng lẳng trên cành gai móc ó”(tr.124). Người đọc hiểu là cô gái đã chết dưới hỏa lực đại liên của giặc. Vậy
mà, sau trận phục kích, cô gái lại xuất hiện, ”để nguyên chiếc vú bên trái vun đầy, chắc nịch, và nửa khung ngực trái
nở nang, tràn trề thấm máu”(tr.136). Người đọc ngỡ cô bị thương nặng ở ngực nên ngực mới tràn trề thấm
máu. Nhưng không, cô chỉ bit thương “sướt da bụng” mà thôi (!) (tr.140).
Như vậy có thể thấy, những hạn chế của HVB là hạn chế về cách thể
hiện ( yếu tố kỹ thuật) , một phần có thể do quan niệm của nhà văn về tính quần
chúng, hay do ảnh hưởng miêu tả kiểu truyện kiếm hiệp ngày xưa, cũng thể do “cái tạng “ riêng con người Đồng Nai của
HVB, thích những cảnh cường điệu, “giật
gân”, những tình huống “phi thường”,
những cách nói năng “bỗ bã”, thích
chêm vào “cái tục” dân gian…mà không
phải là do “chưa thoát khỏi ảnh hưởng các
khuynh hướng nghệ thuật Tư sản “(Nguyễn Kim
Chi,sđd). Hạn chế làm giảm giá trị nghệ thuật của
tác phẩm là ngòi bút HVB chưa đạt tới tính chân thật nghệ thuật, vì thế những
gì ông muốn trình bày, muốn phản ánh đã không đạt được như chủ đích sáng tác.
Điếu đáng trân trọng là HVB đã ghi lại được những giấy phút đầu
tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Tinh thần bám đất quyết tử của
nhân dân, ghi được phần nào tính cách và hào khí Đồng Nai, đặc biệt là khung cảnh
xóm làng Đồng Nai : dòng Đồng Nai rì rầm (tr,121/I), thác Trị An lồng lộn gào thét (tr.139/I), dòng Đồng Nai uất nghẹ mùa tháng mười, sôi sục máu tươi của người
dân Đồng Nai từ đáy sông trào lên (tr.156/I), sông Đồng Nai lấp lánh dưới ánh nắng gay gắt tiết trời mù nắng (tr.235).
Ngày nay đọc Trên Mảnh Đất Này, người đọc được sống
lại những tháng ngày “gian lao mà anh
dũng” của nhân dân Đổng Nai, và đặc biệt nhận ra điều này :”cái vĩ đại của Đảng là tập hợp được các lực
lượng…dưới ngọn cờ của Đảng, dưới ngọn cờ của dân tộc” để tiến hành kháng
chiến, đạt được những thăng lợi vẻ vang. Tình yêu quê hương của HVB chảy tràn
trên trang văn. Tác phẩm cũng đem đến cho người đọc nhiều hình ảnh đặc thù của
đời sống, sinh hoạt, chiến đấu của con người Đồng Nai trong quá khứ.
1/1988
________________________________
(1) Nguyễn
Thành lập : Nhà văn Hoàng Văn Bổn. Văn Nghệ Quân Đôị số 3 năm 1985.tr.127(2) Nguyễn Kim Chi.Tạp chí Văn Học số 2. Năm 1963.tr.16 – Phan Cự Đệ, Tiểu Thuyết Việt Nam Hiện Đại, tập 1, tr.168
(3) M.Gorky Bàn Về Văn Học. Nxb Văn Học Hà Nội.1970.tr.174
(4) Cácmác-Ph.Angghen _V.I.lênin : Về Văn Học và Nghệ Thuật. Nxb Sự Thật.1977.tr.83
(5) Văn Nghệ Đồng Nai sồ 81 . tháng 5 năm 1987.tr.13
(6) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung Ương Đảng Cộng Sản VN tại Đại Hội Đại Biều toàn quốc lần thứ VI. (*) Bản in của Nxb Đồng Nai năm 1984
(7) (1) Thư gửi Latxan 18.5.1859 – C. Mác – Ph Angghen – V.I.Lênin : về Văn Học và Nghệ thuật, sđd.tr374.
(8) Văn Nghệ Đồng Nai số 85, tháng 9/1987.tr.7
(9) Xem thêm các chi tiết tục ở tập II, các trang : 53, 54, 55, 58, 96, 98, 107, 111, 162, 166, 236, 249,…
(10) Tập 2, tr 44,45,47
(11) Đọc thêm bài viết của BCT về tác phẩm của nhà văn Hoàng Văn Bổn :
Đọc Miền Đất ven Sông ,thử tìm hiểu tiểu thuyết sử thi của Hoàng Văn Bổn
Trang web Hội Nhà Văn Ngày 28/8/09. http://hoinhavanvietnam.vn/News.asp?cat=8&scat=&id=1735
Xin đọc thêm chuyên luận BCT viết về Hoàng Văn Bổn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét