Thứ Ba, 22 tháng 7, 2014

Quả Ngọt- thơ Lê Đăng Kháng


KHÚC GIEO TRỒNG BAN MAI”

(Đọc tập thơ Quản Ngọt của Lê Đăng Kháng-Nxb Văn hóa Văn nghệ-Tp.HCM 2014)

 

 

 

Điều thú vị khi đọc một tập thơ là được đọc những bài thơ hay và khám phá phẩm chất “thi nhân” của tác giả. Bởi đó là cốt cách của một nhà thơ, một khuôn mặt thơ có những đường nét gân guốc ấn tượng. Quả ngọt có là kết tinh cốt cách ngòi bút Lê Đăng Kháng không?

1.“Miêu tả cho hay, cho chân thật và hùng hồn…”*

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với văn nghệ sị :” Trong phong trào thi đua yêu nước của đồng bào miền Bắc và cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam có những người, những việc vô cùng anh dũng, oanh liệt. Đó là những "đề tài" cực kỳ phong phú để cổ vũ đồng bào ta và để giáo dục con cháu ta. Miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn những người, những việc ấy, bằng vǎn, bằng thơ, bằng vẽ và bằng các nghệ thuật khác, v.v...” Có thể nói, phẩm chất thơ và “thi pháp” thơ Lê Đăng Kháng nằm trong yêu cầu này:”Miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn những người những việc” mà anh đã chứng kiến, đã yêu thương.  

Cái “hay” trong thơ Lê Đăng Kháng là sự khám phá cái đẹp của hiện thực. Dù anh phải nói đến cái bi thương, hay cái xô bồ phức tạp đời thường, thì ở góc nhìn nào Lê Đăng Kháng cũng khám phá và miêu tả cái đẹp ẩn dấu. Phẩm chất “nhà thơ” của anh cũng thể hiện ở phương diện này. Anh không viết tụng ca bay bổng hay bày tỏ những bức xúc của cá nhân, cũng không làm thơ để chia sẻ những nỗi niềm riêng tư, mà anh hướng về cuộc đời. Nếu nói rằng “cái đẹp ấy là đạo đức” thì cái đẹp của Lê Đăng Kháng có phẩm chất quý này. Xin đọc Bà mẹ bán khoai (tr. 28) và Ác Tính (tr. 95)

Bà mẹ bán khoai

Chẳng thể đoán bà bao nhiêu tuổi

Nước da như màu nắng màu bùn

Khuôn mặt bà từa tựa như phù thủy

Nhưng càng nhìn càng có nét trẻ trung.

 

Nắng mưa phong trần một tấm lá buông

Sàng khoai mật với vài mươi trái cóc

Quán của bà xúm xít trẻ con

Chúng gọt cóc rồi chấm vào muối ớt.

 

Quán của bà đông khách công nhân

Người quét đường, người vào xưởng thợ

Sáng sáng chở con đi nhà trẻ

Quen quán bà cứ ghé mua khoai.

Trao khoai xong, bỏ tiền vào giỏ

Bà lại ngồi dửng dưng

Có phần như mong nhớ.

 

Đọc trong mắt bà

Người ta không thấy giá vàng lên cơn sốt

Không thấy các cuộc thanh trừng tội ác

Cũng trong mắt bà

Không đào đâu ra lượng thông tin thông thái

Bà chỉ bán khoai một củ mười đồng.

 

Những ngày mưa bà không bán ven đường

Tôi thấy mình bơ vơ như không nơi trú trọ

Một lần mua, tôi nhớ mãi một lần

Trả tiền xong thấy con tôi cầm hai củ

Tôi vội vàng trả mười đồng nữa

Bà dửng dưng xua tay

Tôi đạp xe đi hốt hoảng

Lại nhớ những kỳ lĩnh thưởng

Ký tên và nhận ngàn đồng

Cứ nghĩ như là ân sủng

Bằng cái chính mình khổ sở làm ra.

Mười đồng và ngàn đồng

Bà già bán quán

Ngón tay khô gầy như chân gà mẹ ủ con

Đôi mắt ấm như ngày đông chợt nắng

Trong mắt bà người ta đọc…

Bà chỉ bán khoai một củ mười đồng”

 

Bài thơ là câu chuyện đời thường, được kể cũng bằng kiểu ngôn ngữ đời thường, không trau chuốt. Cách kể gọn, khách quan, mạch truyện nhanh, nhưng những chi tiết miêu tả và hành động truyện được chọn lọc kỹ và đặt trong mối tương phản, tạo nên ấn tượng thẩm mỹ-tư tưởng mạnh mẽ nơi người đọc. Trong những chi tiết xô bồ của hiện thực, tứ thơ chợt lóe lên với sắc màu đặt biệt :” Trao khoai xong, bỏ tiền vào giỏ/ Bà lại ngồi dửng dung/ Có phần như mong nhớ”… Bà già bán quán/ Ngón tay khô gầy như chân gà mẹ ủ con/ Đôi mắt ấm như ngày đông chợt nắng. Những tứ thơ này thật thú vị, bởi nó khắc tạc được vẻ đẹp của một người đàn bà lam lũ, nhưng cũng đồng thời làm lộ ra phẩm chất thi sĩ của người cầm bút, và hơn hết là ở tấm lòng nhà thơ, mở sự khám phá ra “cái đẹp” trong đời thường, cái đẹp thật đáng trân trọng

 

Ác tính

 

“Ác tính không chừa một ai

nó quật ngã chàng tân binh má phính

cái rét từ trong ruột rét ra

vật vã vặn mình

cơ thể không còn giọt nước

sau cơn sốt bạn nằm thoi thóp

có người phát điên

                 khóc rung rung

cậu Tuấn B3 thều thào

          Anh Duy ơi em biết sức mình

          em không thể đi cùng các anh được nữa

          em đã có một con, có vợ

          thương em sau này anh về qua

          anh nhận vợ em làm vợ

          con em, anh cho cháu học hành

          nhắm mắt rồi em biết ơn anh

Cả đại đội bật khóc

chính trị viên cố kìm tiếng nấc

vĩnh biệt người lính nông dân hiền lành

Tuấn nằm lại bên đường giao liên

mộ Tuấn như cột mốc

chỉ đường cho những cuộc hành quân”

 

Bài thơ là một câu chuyện được thuật lại khá cô đọng và ấn tượng. Và hẳn bạn đọc cũng không thể kìm nén được tiếng nấc như người chính trị viên kia trước một hiện thực bi tráng đến thế. Sự xúc động mà bài thơ mang lại xuất phát từ “cái thật”, “cái đẹp: và sự “hào hùng bi tráng”, khúc bi tráng như trong thánh ca. Tác giả không kể tiếp câu chuyện sau đó diễn biến thế nào, số phận các nhân vật ra sao, nhưng người đọc nhìn rõ điều này, cuộc hành quân vẫn vượt lên phía trước, và sự hy sinh đã trở thành “cột mốc chỉ đường cho những cuộc hành quân”. Đó là một cách “kết lửng” mở ra bao nhiêu rung động. Cái đẹp kết hợp với cái chân thựccái hào hùng tự nhiên đến nỗi tưởng như câu chuyện thực là thế, nhà thơ không cần phải dụng công sáng tạo gì thêm. Thưa không phải vậy, viết được một bài thơ như thế này, không phải người thơ nào cũng có thể viết được. Phải giấu cái tôi đi triệt để, nói cách khác, cái tôi nhà thơ hòa trong đồng đội; phải giấu cảm xúc đi, và nén lại trong từng con chữ được chọn kỹ, và phải cấu tứ kín đáo đến từng chi tiết, sao cho khi quả bom thẩm mỹ bùng nổ thì năng lượng thẩm mỹ có thể chiếm hữu trọn vẹn lý trí và trái tim người đọc. Tôi gọi đó là tài năng sáng tạo.

 

2.Khúc gieo trồng ban mai

 

Nhiều người làm thơ, khi viết về  quê hương, về gia đình đã khai thác cái nghèo, cái cơ cực của người thân và qua đó thể hiện tình cảm của mình. Hoặc viết về cái “ngày xưa” tình nghĩa  để phê phán cái bất nhân bất nghĩa của đời sống kinh tế thị trường. Cũng có người chỉ “sống “ với quá khứ , “ăn mày quá khứ” với những hào quang một thời chiến trận. Lê Đăng Kháng không vậy, anh cũng viết về cái nghèo, cái hôm qua nhưng là “gieo trồng ban mai”

 

Sáng nay con ra đồng

Đồng làng ngợp gió mùa xuân

Trên mồ mẹ cỏ non đã mọc

Con thắp một nén nhang

 

Khi con từ mặt trận về

Mẹ không có mặt

Để mẹ cười ra nước mắt

Sờ vào tai vào tóc con mình

Ngỡ trên mình con còn mùi thuốc đạn

Trên lưng con có gói cau khô

Con đặt lên bàn thờ khấn mẹ

Một đời mẹ thắt lưng cho chặt

Ăn trầu thay cơm

Một cuộc đời vùi trong tro trấu

Có những đứa con đi khắp chiến trường

Bom Mỹ ném ngọn đèn phụt tắt

Mẹ vẫn nuôi hy vọng âm thầm…

Mẹ ơi cuộc sống kỳ lạ thật

Khi bom Mỹ vừa ngưng

Đồng làng ta mạ xanh đã mọc

Trên vồng khoai lấm tấm hoa rau khúc

Mẹ nhắc con dồn sức lực

cho mùa cày cấy vụ xuân

sửA sang lại mái nhà, chái bếp

đón một cô gái thảo hiền như mẹ từng mong

lòng con chợt ấm lại

như có mùi lửa thơm trong bếp nhà mình…

                        (Khúc gieo trồng ban mai)

 

Ngôn ngữ thơ Lê Đăng Kháng là ngôn ngữ tường minh, song tình ý lại ẩn mật (tuy không cần phải giãi mã). Niềm hạnh phúc khi đọc thơ như hương thơm quý, không cần nói ra, sợ cái thanh khiết của tâm hồn, cái tinh anh của câu chữ sẽ bay đi mất. Lê Đăng Kháng cũng nói đến nỗi đau mất mẹ, cũng miêu tả người mẹ sống khó nghèo và âm thầm hy sinh, nhưng nhà thơ không nói những nỗi bi thương mà nói đến hạnh phúc trong những chuyện đời thường. Chuyện trồng lúa trồng khoai, chuyện sửa lại mái nhà chái bếp, cả chuyện giục con lấy vợ. Chính những cái đời thường ấy lại làm hiện lên sự kỳ vĩ của một bà mẹ Việt Nam bình dị. “Một đời mẹ thắt lưng cho chặt/ Ăn trầu thay cơm/ Một cuộc đời vùi trong tro trấu/ Có những đứa con đi khắp chiến trường”. Cái đẹp của đất quê, người quê từ gia đình, đến xóm làng hiện lên tươi xanh kỳ lạ. Quá khứ đã gieo trồng ban mai. Đó là một ý tưởng, một tứ thơ định vị được sự khác biệt, sự độc đáo của thơ Lê Đăng Kháng. Giữa những câu thơ kể chuyện bỗng bật lên những lấm tấm hoa tinh tế và thú vị :” Đồng làng ta mạ xanh đã mọc/ trên vồng khoai lấm tấm hoa rau khúc”; lòng con chợt ấm lại/ như có mùi lửa thơm trong bếp nhà mình”.

 

Lê Đăng Kháng có thế mạnh ở những bài thơ viết về đồng quê, bởi tuổi thơ của anh đã có những đêm đuổi bắt đom đóm, nghe tiếng chẫu chuộc ở ao làng (Bâng khuâng nhà cũ), anh đã lớn vì bơi qua sông, và biết yêu sông từ đó (Bến quê), và hồn anh thơm nức hương đồng (Chuông gió). Anh ghi được nét đẹp của đồng quê, người quê. (Gió hào phóng như lòng người châu thổ/ thổi qua đây mát mặt sông Tiền/ ánh trăng cũng xanh màu lá lúa…).Thơ anh không có bóng dáng của đời sống công nghiệp hóa, không có cái xô bồ của đời sống phố thị, đôi khi anh có trăn trở một chút (Chuyện gặp giữa đường, Tự xử, Nhạt rượu) nhưng chỉ thoáng qua, hồn thơ anh là hồn thơ đằm thắm nghiã tình, hồn thơ phẳng lặng như mặt hồ bình yên nhưng lại ẩn dấu vẻ đẹp sức mạnh và bản lĩnh Việt Nam mà chỉ người Việt mới hiểu được (Anh thương binh phơi lúa, Bến Dược sau cơn mưa, Chiều lên thành cổ, Giữa rừng mưa, Chiều xuân Côn Đảo,…)

 

3. Khúc tráng ca của lửa

 

Thơ ca Việt Nam đã có nhiều trường ca. Đỗ Quyên thống kê được 400 tác giả với 947 tác phẩm. Lê Đăng Kháng có tên trong bảng thống kê này (1), nhưng tên tác phẩm được ghi là Ngọn lửa ?(danh sách số 1d, số thứ tự 322). Không biết Ngọn lửa có phải là Khúc tráng ca của lửa?

 

Lê Đăng Kháng gọi Khúc tráng ca của lửa là trường ca. Mạch thơ khởi đi từ những ngày “cả làng nhanh chóng tản cư/ quân Pháp đã qua cầu Phủ Lý” đến ngày “chỉ có một Việt Nam chiến thắng/ phút giây hòa hợp từ đây”, người lính chiến về  quê sống đời sống thanh bình. Ghi lại một chặng đường lịch sử dài như thế, Lê Đăng Kháng đã chọn cách viết như thế nào để thực hiện bước nhảy vọt thời gian và bộn bề những sự kiện lịch sử?, làm sao để không lặp lại cách viết của người đi trước, đồng thời có được cái nhìn mới sau chiến tranh gần 40 năm? Trả lời cho được những vấn đề ấy cũng chính là những nỗ lực khám phá sáng tạo.

 

Lê Đăng Kháng chọn góc trần thuật của người dân kháng chiến và góc nhìn của người lính chiến trường, từ đó anh chọn những khoẳng khắc kết tinh nhất của hiện thực để ghi lại, để suy gẫm và lên tiếng nói. Dòng chảy thơ được triển khai theo tuyến thời gian, tuyến sự kiện và dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình, khiến cho người đọc vẫn cảm nhận được nhất quán hiện thực được phản ánh theo chiều dài lịch sử. Chất sử thi và chất trữ tình đan quyện vào nhau.

 

Lê Đăng Kháng không khai thác sự tàn bạo của lòng căm thù trong chiến tranh mà khám phá cái bản lĩnh Việt Nam, cái đẹp Việt Nam cả trong đau khổ, bi đát và trong chiến thắng. Tất cả đều rất đỗi bình dị nhưng vĩ đại. Ngòi bút tự sự của một nhà văn giúp anh ghi được sắc nét con người, sự việc và những chi tiết thật “đắt”, tươi rói sự thật chiến trường. Nhiều cận cảnh thật xúc động mà chỉ riêng người lính chiến trường Lê Đăng Kháng mới có được. Sức hấp dẫn của thơ lê Đăng Kháng còn toát ra từ sự ngôn ngữ chắt lọc kết hợp với nhịp vận động cuồn cuộn  của thời đại và nhịp đập mãnh liệt của trái tim nhà thơ. Thơ là hơi thở sự sống của người trong cuộc, là nhân chứng tại chỗ của lịch sử.

 

Sau 40 năm, Lê đăng Kháng vẫn giữ được nguyên vẹn hình ảnh, cảm xúc và tâm tư người lính chiến trường trong những năm tháng ác liệt hào hùng để kết tinh thành “Quả ngọt”, quả là điều lạ lùng của trái tim. Cái nhìn của anh về chiến tranh hôm nay là cái nhìn hòa hợp hòa giải dân tộc. Thơ anh cháy lên một tình thương yêu vô biên với dân tộc trong mọi nghịch cảnh của lịch sử. Anh không tra hỏi về chiến tranh, không lý giải những nguyên nhân chiến thắng và chiến bại, bởi chiến tranh là một bi kịch mà dân tộc này phải chịu. Và bởi chiến tranh là tổn thất và hy sinh, tất cả đã qua rồi không ai lại cứ khơi lại để vết thương rỉ máu mãi. Lê Đăng Kháng viết về chiến tranh để nói cái khát vọng hòa bình của dân tộc này, một dân tộc biết “thương người như thể thương thân”, bởi “người ta là hoa đất”.  Từ góc nhìn này, Lê Đăng Kháng đã miêu tả những hy sinh thăng hoa trở thành ánh sáng chói lọi của lương tri và của lịch sử.

 

Làng cháy ghi cái không khí chạy loạn tao tác ngày giặc Pháp tràn  tới

“moóc-chê hú rợn người

những đứa trẻ khóc ngất

                   như chết sài

                   chết đẹn

ngoài ruộng khoai đã có người trúng đạn

cha thả bung chuồng lợn chuồng gà

một bên con, một bện thúng gạo

đòn gánh trĩu hai đầu

tay còn dắt theo trâu

cả làng hớt hải

               bồng bề gánh gồng

xcairayđơ bay sát ngọn tre

đạn đum đum như trấu vãi

cả làng túa ra

          như ong vỡ tổ

nhanh lên

nhanh lên…”

 

Trong hang núi ghi lại cảnh : “cả làng chia nhau bát cháo, những đứa trẻ /vừa đẻ một giờ chiều/ đã lên cáng chạy loạn, …những đứa rơi xuống cầu Đồng Sơn..cả làng khắc cốt từ đây”.

 

Mười tám năm sau, “từ những đêm hang đá ấy/ nhiều đứa con trai vụt lớn lên săn chắc hình hài…” Miền Nam gọi, “thầy trò như cánh chim/ cùng bay trong bão táp”(Bi tráng). Họ đã lên đường “quân phục thùng thình, lúng túng”(Lên đường), với bao nhiêu lưu niệm trong “đôi mắt học trò nông dân trong như ngọc”,”vượt Trường Sơn chân cứng đá mềm” cùng những lời hò hẹn chờ nhau ngày thống nhất (Lưu niệm). Nhưng trường sơn ác liệt.” Nhiều tân binh quê Hà Tây, Nam định/ lúc giải lao ngồi bật khóc ngon lành/ đôi chân phồng rộp rỉ máu/ ba lô siết vào vai/ quai súng siết vào vai/ Đại đội trăm người vào đến Xê Bang Hiên/ nay chỉ còn hai trung đội…”(Trường Sơn). Những trận bom B52 ác liệt :”đồng đội trộn đều xương máu/ hình hài chia đều trong mỗi mảnh tăng/ các anh nằm lại Trường Sơn…các anh đã hóa thân vào ghềnh thác/ bồi đắp cho hùng vĩ Trường Sơn”(B52).Trong cái gian khồ ấy, một “đĩa rau lang ở Lệ Thủy/ đã trở thành cổ tích hành quân/ bốn tháng như bốn năm dằng dặc/ điệp khúc cơm nắm và mắm ruốc/ thèm một đã rau muốn phát điên…”(Rau) và sốt rét ác tính đã cướp đi sinh mạng của bao đồng đội, “Ác tính không chừa một ai.”

 

Tương phản với những những gian khổ, ác liệt, hy sinh là “Lửa”. Lê Đăng Kháng đã viết một chương anh hùng ca rực lửa. Mạch thơ có tầm vóc sử thi về những ngày toàn thắng mùa xuân 1975, khởi từ ngày đầu tiền công giải phóng Tây Nguyên, Phước Long, rồi Định Quán, Xuân Lộc.

“Mười một ngày đêm trong chảo lửa

Chiến sĩ ta như thép như gang

Mỗi căn nhà mỗi ngã tư góc phố

Thực sự nỗi kinh hoàng

Những chiếc xe tăng như lá chắn

Đưa cơm và chuyển thương binh

Ta dồn sức đập ta cửa thép

Trận quyết chiến này cho cả miền Nam…

… đường về Sải gòn chỉ còn một giờ xe chạy/

năm cánh quân như những gọng kìm

…Thấn tốc! thần tốc! Thần tốc nữa/

chớp thời cơ giải phóng miền Nam/

khúc Quân hành vang lên giục giã…

                              (Lửa)

 

Nhưng hạnh phúc và cảm động  biết bao giây phút chiến sĩ ta tại bưu điện Sài gòn viết thư cho mẹ

Mẹ kính yêu!

Chúng con túa vào Bưu điện Sài gòn

màu áo xanh còn vương khói súng

có cậu mới vào chiến trường hai tháng

người đã xa mẹ mười năm

kê mảnh giấy lên chiếc ba lô trận mạc

nắn nót những dòng dầu tiên

Thưa mẹ

Con đang ở bưu điện…

con ngồi cách thùng thư mươi bước…

 

Người lính chiến không kể cho mẹ về niềm vui chiến trận mà kể niềm vui đất nước tự do, niềm vui của một dân tộc chiến thắng và hòa hợp, niềm vui của cuộc sống và ước mơ hòa bình . “Con ước biến thành cánh chim/ bay về làng trong chốc lát/ được ăn bát cơm mẹ thổi/ cùng những đọt lang mẹ hái ở vườn nhà/ mẹ ơi hòa bình rồi dù ăn rau ăn mắm/ cũng là giây phút thần tiên…”. Nhưng trong niểm vui lớn lao đó, canh cánh bên lòng là những đồng đội đã nằm lại dọc Trường Sơn.

 

Mẹ ơi!

        hàng ngàn đồng đội của con

đã không về Sài gòn sáng nay

họ nằm lại các ngả đường chiến thắng

từ Tây Nguyên, Xuân Lộc, Đồng Xoài…

máu tim họ nhuốm màu cờ bất tử

…lửa tim bùng ngọn đuốc tương lai…

 

có ai nhớ những nấm mồ

rải rác dọc Trường Sơn

những đoàn quân đi hàng năm vào mặt trận

cơn sốt rét rừng quái ác

treo nắm xương trên cánh võng giữa rừng

để lại những bài thơ viết dở

hồn hóa ngàn cánh bướm

thành khúc ca huyền thoại dọc Trường Sơn…”

 

Hai đoản khúc Khúc gieo trồng ban maiTrăng là những áng thơ đẹp về khát vọng cuộc sống thanh bình. Hồn thơ và hồn quê chan hòa trong nhau, ánh lên những sắc màu hạnh phúc.

Con tha thẩn giữa cánh đồng

lúa vàng như sóng đổ cùng chân mây

tiếng ai gọi vịt đâu đây

lòng mương cá quẫy cuối ngày đớp trăng

chiều quê ai đốt lửa đồng

lòng con như sợi khói nồng bay lên

 

Đêm nay trăng chảy tràn đường thôn

những đống rơm phập phồng trăng thở

lung linh sau rặng tre

bếp nhà ai bập bùng lửa đỏ

kể về làng quê thanh bình…

                  (Trăng)

Xin đọc đoạn sau đây trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh (1977) để thấy sự khác biệt của thơ Lê Đăng Kháng viết về chiến tranh hôm nay.

 

Xuân Lộc
Tôi gọi những căn nhà trơ trọi hàng hiên
Xiêu vẹo đỡ một hoàng hôn rách rưới
Vạn niên thanh
Tức tưởi
Chết bò lê dưới ghế nhựa ba chân
Ghế hất sấp ấm êm vào lổng chổng
Kẻ thù từ đó hiện ra
Kê thường dân làm bệ bắn
Xuân Lộc
Tôi gọi những cánh rừng cao su
Rừng cao su bật gốc
Chân nhang la liệt đất
Kẻ thù từ đó hiện ra
M.48 bò lên sau bom ngạt dạo đầu
Trăm mảnh đạn đuổi theo người tị nạn
Kẻ thù tàn ác hết những gì chúng có
Những ngày chúng ta gan góc hết mình
Một gốc cao su nửa giờ trước là ta, nửa giờ sau chúng chiếm…
…Trước mặt ta là Sài Gòn
Sau lưng chúng cũng là Sài Gòn
Chúng lượm truyền đơn bắn trả ta
Chúng mặc áo cà sa đi chôn mìn định hướng
Chúng phóng M.72 trên nóc nhà thờ…


4. Qủa ngọt thơ Lê Đăng Kháng

 

Thơ Lê Đăng Kháng không lạ về lời, không mới về tứ, không hiện đại về nội dung, bút pháp, cũng không tài hoa liên tưởng bay bổng, nhưng Lê Đăng Kháng thu hoạch được nhiều “quả ngọt” trong tập thơ này.  Vậy điều gì làm nên thơ Lê Đăng Kháng?

 

Ở nhiều tập thơ, nhân vật Tôi (tác giả) thường là nhân vật trung tâm. Tác giả luôn tìm cách phô trương cái tôi, khiến cho những giá trị khác của thơ bị mờ nhạt. Cái Tôi nhà thơ Lê Đăng Kháng là cái tôi hướng ngoại để kiếm tìm và chia sẻ, để tự nhận thức lòng mình, giá trị đời sống của mình.(Anh thương binh phơi lúa, bến Dược sau cơn mưa, Chuông gió, Chiều lên thành cổ, Chiều xuân Côn Đảo ) Có một dòng chảy hiện sinh trong mỗi bài thơ. Thực tại đang diễn ra và dòng suy tư trôi chảy cùng một lúc, bài thơ trở thành những khoảnh khắc đang trải nghiệm của nhà thơ. (Chuyện gặp giữa đường, Bà mẹ bán khoai, Mắc nợ Bạc Liêu, Hành trang, Quả ngọt, Giữa rừng mưa)

 

Lê Đăng Kháng đặc biệt thành công ở những bài thơ tự sự. Ưu thế của ngòi bút viết văn xuôi giúp anh có cách kể nhanh, chọn được cảnh sắc, nhân vật, tình huống đắt giá. Câu chuyện, tình huống tự nói lên nhiều điều, nhiều hơn ngôn ngữ chuyển tải. Chất thơ của câu chuyện chính là cái đẹp của đời sống được thanh lọc qua trái tim tinh khôi của tác giả (Anh thương binh phơi lúa, trường ca Khúc tráng ca của lửa). Điều này khác biệt với trường ca của nhiều tác giả khi cố ý khề khà “con cà con kê” để kéo dài bài thơ.

 

Tuy vậy, thơ tình yêu của Lê Đăng Kháng không hay bằng thơ chiến trường. Anh có những bài Lục bát hay nhưng chưa hiển hiện thành cốt cách (Anh thương binh phơi lúa, Giữa rừng mưa). Khi những nghĩ suy chưa thật chin và trái tim chưa kết tinh đủ độ ngọt thì thơ của anh thiếu thuyết phục. Và, tôi rất tiếc, nếu Khúc tráng ca của lửa được anh viết đài hơn, hẳn sẽ là một trường ca ghi được dấu ấn đẹp trong thơ ca Việt Nam đương đại.

 

Điều để lại trong lòng bạn đọc là sự chân thật tinh khôi của hiện thực và của tâm hồn tác giả, làm nên giá trị thơ. Bạn đọc cũng yêu một hồn thơ “quê kiểng” ấm áp tình người, tình đời, chia sẻ những nỗi niềm tin cẩn. Lê Đăng Kháng nói :”tôi nhẹ lòng vì đang được chia sẻ

 

Được sống những phút giây này của nhà thơ thì thật thú vị

Con tha thẩn giữa cánh đồng

lúa vàng như sóng đổ cùng chân mây

tiếng ai gọi vịt đâu đây

lòng mương cá quẫy cuối ngày đớp trăng

chiều quê ai đốt lửa đồng

lòng con như sợi khói nồng bay lên

 

Tháng 7. 2014

 

 

_______________________________________

(*) Hồ Chí Minh, Nói chuyện trong buổi lễ bế mạc Đại hội liên hoan anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III (6-5-1962). Báo Nhân dân, số 2.965, ngày 7-5-1962.

(1) http://vanvn.net/news/31/1645-400-tac-gia-truong-ca-viet-nam.html

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

LỜI GỌI BIỂN ĐÔNG- ca khúc của Bùi Công Thuấn

Bạn nghe ca khúc này theo link:



LỜI GỌI BIỂN ĐÔNG

Nhạc và lời : Bùi Công Thuấn

 

Điệp khúc:

Biển Đông cơn sóng dữ đang thét gào
Biển Đông mình tổ quốc loang máu đào
Kẻ cướp dã tâm bành trướng
Tàu chiến chúng giăng mọi hướng
Ngang nhiên lấn chiếm biển đảo quê ta

 
Biển Đông lời tổ quốc đang réo gọi,
Biển Đông triệu con tim xin đáp lời
Thề chiến đấu không lùi bước
Thề sống chết cho tổ quốc
Biển của ta đất trời thiêng liêng!
 

Tiểu khúc;

Đất ta biển Đông là đất Rồng Lạc Long Quân,
Cháu con giữ gìn từng tấc đất của cha ông.
Dấu xưa còn ghi biển nhấn chìm quân cướp nước,
Kìa Bạch Đằng Giang từ vạn cổ “huyết do hồng”*

                                         (trở lại điệp khúc)

 

Ghi chú
 

Đằng giang tự cổ huyết do hồng” là lời của Giang Văn Minh (1537-1638) sứ giả Việt Nam đối đáp với vua nhà Minh. Ông bị vua Minh hành hình tàn bạo