Thơ Lục Bát, Một cõi trời mênh mông
Bùi Công Thuấn
Trong thi ca tiếng Việt, Lục Bát là một cõi trời
mênh mông mà không hẳn nhà thơ nào cũng có thể vươn tới những đỉnh cao. Tôi tin
rằng, dù thơ Việt Nam có cách tân thế nào, có những hình thức mới mẻ nào khác,
thì Lục Bát vẫn tồn tại mãi, bởi vì Lục
Bát là tiếng nói gần gũi, đằm thắm, thiết tha cuả người dân Việt mà ít có thể thơ nào sánh được.
1. Lời vui , mạo muội
xin thưa …
Đối với người Việt Nam, làm những câu vần Lục Bát , dễ như thở không khí. Chẳng hạn :
“ Hôm nay mùng tám tháng ba / chị em phụ nữ đi
ra đi vào ..” Trong những dịp vui cộng đồng , những dịp họp mặt , ta thường gặp “ nhà thơ dân gian “ ứng khẩu ngay một bài Lục Bát rồi đọc to lên
, mọi người tán thưởng , vỗ tay rôm rốp. Có người còn vận Lục Bát vào những câu
hò như “a li hò lờ “ sôi nổi , ấn tượng . Không khí cuộc vui trở
nên hấp dẫn hơn cả đại hội nhạc Rock
Bây giờ nếu Hội Nhà Văn tổ chức một cuộc kiểm tra năng
lực thơ cuả hội viên bằng cách mở một cuộc thi Lục Bát , Hội ra đề , mỗi hội viên thơ làm một bài Lục Bát khoảng 100 câu , tôi dám chắc rất nhiều người
phải trả lại thẻ hội viên ( ! ) Không
tin , Hội cứ mở một cuộc tỷ thí , giưã thanh thiên bạch nhật , giưã sân đình
làng Văn , có thần dân cả nước và quốc tế chứng kiến , chắc là cuộc tỷ thí ấy sẽ vang động khắp
năm châu , và người đoạt giải , xứng
đáng được khắc bia đặt trong Văn Miếu .
Sau khi
thất thân với Mã Giám Sinh , Kiều bị Tú Bà
xỉ mắng thậm tệ . Ngôn ngữ Lục
Bát cuả Nguyễn Du đọc nghe nổi da gà .
“ Cớ sao
chịu trót một bề
Gái tơ mà đã ngưá nghề sớm sao “
Trăm năm trong cõi người ta…
…Mua vui
cũng được một và trống canh “
- Nếu và nhưng vẫn ắt rằng
Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia
Và nhưng tuy dẫu là chia
Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn
(Tuy nhiên)Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia
Và nhưng tuy dẫu là chia
Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn
Gió sao gió mát sau lưng
Dạ
sao dạ nhớ người dưng thế này ( ca dao )
Một nỗi
buồn thương man mác
Gió
đưa cây cải về trờiRau răm ở lại chịu lời đắng cay
( ca dao )
Một tình cảnh vất vả , khó xử cuả
người phụ nữ nông dân , lúc dậy sớm chuẩn bị cho một ngày lao động
Đang
khi cơm lưả đang nồng
Lợn
kêu , con khóc , chồng đòi tòm tem
Bây
giờ cơm chín , lợn imCon thôi đòi bú , tòm tem thì tòm
( ca dao )
Và một cuộc
rượt đuổi không sao với tới được giưã chàng
và nàng trong tình yêu
Em
như cục cứt trôi sôngAnh như con chó chạy rông trên bờ
( ca dao )
Nhân gian từng truyền tụng những câu thơ hiện đại rất
thú vị cuả Bút Tre như thế này ( Tôi
không rõ có đúng nguyên văn , hay dân gian có chế biến đi chăng )
Anh
đi chiến dịch Pờ - Lây
Cu
dài dằng dặc biết ngày nào ra
Hoặc
Chị
em phụ nữ đánh cầu
Lông
bay phần phật trên đầu các cu
Lục Bát là thể thơ cuả những nhà
thơ tài hoa , những nhà thơ sống mãi với dân tộc .
TÂM SỰ NÀNG
THUÝ VÂN
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chị
yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim
Ơ
kià sao chị ngồi im
Máu còn biết chảy về tim để hồng
Lấy
người yêu chị làm chồng
Đời em thể thắt một vòng oan khiên
Sụt
sùi ướt cỏ Đạm Tiên
Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn
Mấp
mô số phận vuông tròn
Đất
không thể nhốt linh hồn đòi yêu
Là
em nghĩ vậy thôi Kiều
Sánh sao đời chị ba chiều bão giông
Con đò đời chị về không
Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường
Chị
nhiều hờn giận yêu thương
Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò
Em
chưa được thế bao giờ
Tiết trinh thương chị đánh lưà trái tim
Em
thành vợ cuả chàng Kim
Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao
Giấu
đầy đêm nỗi khát khao
Kiều ơi , em đợi kiếp nào để yêu
?
( Trương Nam Hương )
Người
ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở
hơi , nào dở hơi gì
Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình
Làng
này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ
anh chửi đổng suốt ngày
Chỉ mình em biết anh say rất hiền
Anh
không nhà cưả bạc tiền
Không ưa luồn cúi không yên phận nghèo
Cái
tên thơ mộng Chí Phèo
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao
Quần
anh ống thấp ống cao
Làm em hồn viá nao nao đêm ngày
Khen
cho con tạo khéo tay
Nồi này thì úp vung này chứ xao!
Đêm
nay trời ở rất cao
Sương thì đẫm quá , trăng sao lại nhoà
Người
ta … mặc kệ người ta
Chỉ em tất thật đàn bà với anh
Thôi
rồi , đất lắm tiết trinh
Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm
( Quang Huy )
LỜI RU CON CUẢ NGƯỜI YÊU CŨ
Dừng
chân bất chợt , lắng nghe
Tiếng ru mới mẻ gọi về xa xôi
Điệu
ru quen thuộc bao đời
Mà xao
xuyến , mà bồi hồi
tiếng ru
Một
thời thân thiết dạo xưa
Người con gái ấy bây giờ ru đây
Tròng
trành tiếng gió tiếng mây
Nưả ru bé ngủ nưả
lay gọi lòng
Con
thuyền nói với dòng sông
Cánh cò nói với mênh mông nắng chiều
Thời
gian nói với tình yêu
Buồn vui lại nói những điều buồn vui
Xin
đừng ai nưã như tôi
Chuyện không đâu để buì ngùi tháng năm
Hẳn
như cách trở xa xăm
Thì tôi ru khẽ ru thầm cùng em
Ngủ
yên cho bé ngủ yên
Và người cha ấy vững bên chiến hào
Qua
bao sông rộng núi cao
Tiếng ru dẫu ở nơi nào cũng thương
Chẳng
làm con nhện tơ vương
Bao con đường vẫn một đường quanh nôi
Lời
ru như lưả bừng soi
Bên nhau ấm những cuộc đời chia xa
Để
lòng mãi mãi thiết tha
Để cho ai đó vượt qua chính mình
( Phạm Ngà )
Vô
tình, tôi nhặt được ba bài Lục Bát cùng thể
hiện những nỗi niềm , những tâm sự , những số phận phụ nữ . Trương Nam Hương
làm người đọc giật mình ( chữ cuả Nguyễn Du ) , vì bấy lâu nay ta đã bỏ
quên mất Thuý Vân . Nguyễn Du đã quá chú ý đến Kiều mà hy sinh Thuý Vân, chẳng
lẽ người đọc lại vô tình với nàng ? Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân là người phúc
hậu , nàng được hưởng trọn vẹn hạnh phúc , suốt đời vô tư . Người đọc cũng lầm tưởng
như thế. Trái lại , Trương Nam Hương hé mở
số phận bi đát cuả Thuý Vân và lên tiếng nói cho nàng . Tiếng kêu thương
ấy dường như vang mãi trong vô vọng ! .
Thị Nở cũng là một số phận như vậy. Một con người dở hơi . Dở hơi là vô tư ,là
không biết nghĩ , không biết buồn và không có nhu cầu sống hạnh phúc?
Nhưng Thị là một con người , hơn nưã là một
phụ nữ , Thị có quyền sống và khát khao hạnh phúc như mọi người. Tiếc
thay ,Thị đã bị vùi dập chẳng khác gì Chí Phèo. Quang Huy đã viết được những
câu rất hay về Thị , tiếp sức với Nam Cao , trả lại cho Thị chút phận người. Ở
bài Lời Ru Con Cuả Người yêu Cũ , Phạm Ngà vẽ nên những hình ảnh đẹp mơ hồ về
người phụ nữ , về người chồng chiến đấu , về tương lai con trẻ và cái tình
riêng cuả nhân vật trữ tình .Những tưởng ngòi bút Phạm Ngà sẽ đưa người đọc đi
mãi vào thế giới lãng mạn cuả tâm hồn , ở đó ,
mọi giá trị cuộc sống bị vượt qua chỉ còn lại cuộc tình cuả “ cái tôi “
. Nhưng kết thúc bài thơ là một câu thật bất ngờ , tuyệt hay về tình ý , sáng
lên tiếng nói lương tri . Đó là cái đẹp cần phải có . Câu thơ có sức làm bừng
tỉnh người đọc, về cái tôi và cuộc sống xung
quanh . Xung quanh ta có bao nhiêu người sống đẹp , ta không thể ích kỷ nhỏ
nhoi…
Để
lòng mãi mãi thiết tha
Để cho ai đó vượt qua chính mình
3. Lục Bát thế kỷ XX có gì mới ?
Đoạn Trường Tân Thanh ( truyện Kiều ) là đỉnh thi sơn , là ngôi đền thiêng Lục Bát Việt Nam
đầu thế kỷ 19 . Thế giới ấy , ngôi đền ấy là nghệ thuật , là tâm thức và là
tiếng nói Việt . Nguyễn Du với Lục Bát
trở thành biểu tượng thành tựu nghệ thuật cuả dân tộc Việt , trở thành niềm tự
hào cuả một dân tộc giàu lòng nhân ái , vượt lên mọi thăng trầm cuả lịch sử
bằng vẻ đẹp nhân văn sáng trong như ngọc quý.
Thế kỷ XX là thế kỷ cuả bao nhiêu trào lưu phương
Tây tràn vào Việt Nam
mà nhiều
nhà thơ Việt Nam
đánh mất mình trong đấy. Bùi Giáng khẳng định : “Chúng
ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt
nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát
Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy
sông hồ “ ( Thi Ca Tư tưởng ) .
May thay , Lục Bát
Việt
Đầu thế kỷ XX phải kể đến Tản Đà . Ông có
những bài Phong Dao thật đặc sắc . Nhữngbài ấy dùng tình ý và ngôn ngữ ca dao để nói những cảm thức mới . Ngòi
bút Tản Đà nhuần nhuyễn và tinh tế , lãng mạn và tài hoa đáng kinh ngạc . Tản
Đà đã mở ra cách sử dụng chất liệu ca
dao để làm thơ Lục Bát mà sau này nhiều nhà thơ kế tục.
Con cò lặn lội bờ ao
Phất phơ đôi giải yếm đào gió bay
Em về giục mẹ cùng thầy
Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong ?
Con cò lặn lội bờ sông
Ngày xanh mòn mỏi , mà hồng phôi pha
Em về giục mẹ cùng cha
Chợ trưa, dưa héo nghĩ mà buồn tênh
(
Tuyển tập Tản Đà , nxb Văn Học 1986 )
Thề Non Nước là một thành công khác về Lục Bát cuả Tản Đà . Bài thơ
vưà có khí vị cổ điển vưà mở ra chân trời lãng mạn cho thi ca giai đọan sau .
Thơ
Lục Bát cuả những nhà thơ Lãng Mạn (
19301945 ) mới mẻ ở “ cái tôi “ cuả
nhà thơ Tiểu Tư Sản. Ngôn ngữ thơ trau chuốt , đạt đến sự tinh tế hiếm có trong
nghệ thuật diễn tả những rung cảm lãng mạn cuả tâm hồn ( Ngậm Ngùi – Huy Cận ..) . Lục Bát Lãng Mạn có chất giọng riêng
. Cho đến nay Lục Bát Lãng Mạn vẫn
giữ nguyên cái hay mặc dù đã qua trên
nưả thế kỷ . Ta có thể nhặt ra nhiều hạt châu ngọc như Ngậm Ngùi ( Huy Cận ) , Thơ Sầu Rụng ( Lưu Trọng Lư ) ; Luỹ Tre
Xanh , Rằm Tháng Giêng ( Hồ Dzếnh ) ,
Huế Đa Tình ( Bích Khê ) , Bến Hàn
Giang ( Hàn Mặc Tử ), Đan Áo
Cho Chồng ( T.T.Kh ) , Gửi T.T.Kh ( Thâm Tâm ) ...Trong bầu trời Lục Bát Lãng Mạn, Nguyễn Bính là một nhà thơ rất mực tài hoa. Chân Quê , Lỡ Bước Sang Ngang , Tương Tư , Người Hàng Xóm … làm xúc
động bao nhiêu tâm hồn người đọc .
Giai
đọạn kháng chiến chống Pháp . Lục Bát phát triển theo một hướng khác . Văn hoá
văn nghệ phục vụ công nông binh . Lục Bát gần với Vè kể chuyện , rất ít chất thơ . Chẳng hạn
, Kể Chuyện Vũ Lăng ( Anh Thơ )
; Tình Tháp Mười ( Bảo Định Giang ) .. .Thời này , đa số các nhà
thơ làm thơ tự do , rồi chen vào câu Lục bát . Bài Ca Vỡ Đất , Bao Giờ Trở Lại (
Hoàng Trung Thông ) ; Bầm Ơi ;
Sáng Tháng Năm ( Tố Hữu ) .
Lục
Bát cuả Tố Hữu giai đoạn này ( tập thơ Việt Bắc ) và cả giai đoạn sau ( tập Gió Lộng ;
Ra Trận ; Máu và Hoa , Nước Non Ngàn
Dặm ) có nét chung này : Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ biểu cảm cuả ca dao , ông đưa vào
thơ hình ảnh quần chúng , nói cái giọng
quần chúng , nói cái tình kháng chiến , tình công dân . Cái tôi chuyển hoá thành cái
ta , thơ ông hướng về quần chúng mà
kêu gọi , động viên , chia xẻ . Trong thơ , Tố Hữu hay gọi “ ơi “ . Lối viết này rất nhiều nhà thơ đi sau
ông bắt chước , thậm chí ảnh hưởng đến tư duy cuả cả giai đoạn thơ kháng chiến chống Mỹ ở miền Bắc .
Bầm ơi có rét không bầm
Heo heo gió núi ,
lâm thâm mưa phùn
( Tố Hữu-Bầm
Ơi )
Cháu ơi cháu lớn với bà
Bố mày đi đánh
giặc xa chưa về
( Tố Hữu - Cá Nước )
Sáng hè đẹp lắm em ơi
Đầu non cỏ lục
mặt trời vưà lên …
…Nỗi niềm chi rưá Huế ơi
Mà mưa xối xả
trắng trời Thưà Thiên
( Tố Hữu - Nước Non Ngàn
Dặm )
Cho tôi hiểu suốt
hai chiều tâm tư
( Hoài Anh –Bài Thơ Tình Thành Phố )
Tôi về xứ Huế mưa
sa
Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa
( Nguyễn Duy – Nhớ Bạn )
Trong em sáng một
mặt trời thương yêu
( Phan Thị Thanh Nhàn – Không Đề )
Chỉ còn đọng lại
mảnh trời lá xanh
(
Bửu Khánh Hồ - Lá Nõn )
Những bài Lục Bát thực sự thành công cuả Tố
Hữu không nhiều . Việt Bắc vận dụng được
lối giao duyên cuả ca dao , Kính Gửi Cụ
Nguyễn Du đặc sắc ở nghệ thuật đối thoại với Nguyễn Du về những vấn đề Tố
Như gửi gắm trong thơ. Mẹ Suốt phát
triển thể Vè cuả ca dao , có phong vị
lãng mạn và hơi thơ anh hùng ca . Luy Lâu
là cảm thức lịch sử về hai bà Trưng , có
hơi thơ anh hùng ca . Lục Bát Tố Hữu gần với Ca hơn là Thơ và có nét riêng . Nội dung rao truyền Cách Mạng , tình cảm Cách Mạng , tình công dân . Chất liệu là hiện thực cách mạng .Tính hiện đại , tính
chính trị , tính quần chúng là phẩm chất
chính cuả Lục Bát Tố Hữu ( cũng là cuả thơ Tố Hữu ) . Nói cho đúng , Tố Hữu chỉ
dùng Lục Bát như một phương tiện chuyển đạt nội dung chính trị , dùng Lục Bát
để nói với quần chúng công nông binh , nói
tiếng nói công nông binh , bởi vì Lục bát hoà thanh dễ lọt tai , dễ nhớ , dễ
thuộc .Ông không sáng tác những bài thơ Lục Bát nghệ thuật . Tuy vậy , những bài Lục Bát cuả Tố Hữu có
những đóng góp nhất định vào sự phát triển cuả thơ Lục Bát thế kỷ XX.
Xẻng
tay mà viết nên trang sử hồng
Trường
sơn , vượt núi , băng sông
Xe
đi trăm ngả chiến công bốn muà
Trường
sơn , đông nắng , tây mưa
Ai
chưa đến đó , như chưa rõ mình..
( Nước Non Ngàn
dặm – Tố Hữu )
Mà
lơ thơ… đến Luy Lâu lại dừng
Cho
ta nhớ thuở bà Trưng
Chiến
thuyền giấu bến , cây rừng giấu binh
Luy
Lâu ngạo nghễ cung đình
Tàn
canh tiệc rượu…Giật mình sấm ran
Bốn
bề nổi lưả Văn Quan
Ba quân gươm giáo ngập
tràn thành đô
Chém
đầu Tô Định , giặc Ngô
Xác
phơi , chín chín đống mồ cỏ hôi
Hai
nghìn năm cũ qua rồi
Sông
Dâu nay đã cát bồi dòng xưa
Luy
lâu còn đó … gió mưa
Vẫn
nghe phần phật ngọn cờ Trưng Vương
( Tố Hữu-15.10.1986 – báo Văn Nghệ số 3-4 . 1987 )
Lục bát những năm trước và sau 1975 phát triển
theo hai hướng : tiếp tục khai thác chất liệu ca dao , thể hiện những tình tự
dân tộc theo hướng Nguyễn Bính , hoặc phản ánh đời sống , hướng về quần chúng ,
nói tiếng quần chúng , nói tình ý công dân , theo hướng cuả Tố Hữu
Vườn
nay người khác đã rào
Khóm mai thay chỗ khóm đào ngày xưa
Em
ngồi giặt áo giưã trưa
Đâu rồi môi hát vu vơ một mình ?
Em
ngồi giặt áo lặng thinh
Vò cho sạch những vết tình còn vương
Giũ
cho vơi hết giọt buồn
Phơi cho khô hết nhớ thương xa vời…
Đàn
Kiều được mấy khúc vui
Thơ Kiều có vận vào đời em chăng ?
Tình
so chưa đủ ngũ âm
Áo chồng con đã nặng oằn dây phơi
Áo
ca dao gió cuốn rồi
Câu ca dao,
trả cho người khác qua …
Tóc
mai rủ bóng hiên nhà
Chuyện xưa dù nhắc vẫn là chuyện xưa
Em
ngồi giặt áo giưã trưa
Rát bàn tay vẫn vò chưa sạch lòng
( Thanh
Nguyên )
Ngủ
đi bạn , ngủ đi anh
Cánh tay mình ngả ra thành gối êm
Ngủ
đi bạn , ngủ đi em
Ngủ ngon giấc ngủ gối lên tay mình
Hiếm
hoi cái giấc yên lành
Hành quân xa, lại tiếp hành quân xa
Bao
anh lính trẻ đã già
Chưa sang hết suối , chưa qua hết rừng
Ngủ
hầm , ngũ võng , ngủ bưng
Gối đầu tay ngủ cầm chừng mỗi đêm
Có
người ngủ thế thành quen
Đã nghe sợi tóc bạc trên tay mình
Trong
hầm biên giới Tây Ninh
Lặng yên mình ngắm lính mình ngủ yên
Bụi
đường trắng tóc thanh niên
Má này thì lại áp lên
tay
này
Trái
tim đập ở cổ tay
Tim ta
ru giấc ngủ đầy
cho ta
Cánh
tay cặp khẩu A.K
Ngày là bệ súng , đêm là gối êm
Ngủ ngon giấc ngủ gối lên tay mình
(
Nguyễn Duy . 8-6-1978 )
Lục bát cuả Hoàng Cầm ( Gọi Đôi , Giả Vờ .. ) tuy
tình ý không nồng nàn như Nguyễn Bính
song có được những tứ thơ lạ , cùng với nét tài hoa vốn có trong thơ cuả ông. Trần
Mai Ninh là một khuôn mặt thơ mạnh mẽ , gân guốc và rất lạ. Thơ Lục Bát cuả ông
cũng có được nét ấy ( Lời Nương Theo Lòng Nắng Gió , Chờ Lưả
, Nhịp
Muôn Đời (1) ) Có người ca ngợi Lục bát Đồng Đức Bốn . Thực ra Đồng
Đức Bốn đi con đường Nguyễn Bính đã vạch
ra ( bài Hoa
Dong Riềng ,Nhà Quê ; Chờ Đợi Tháng Ba …). Nhưng Đồng
Đức Bốn không có cái tài hoa cuả Nguyễn Bính , mà có cái sức cuả một anh lực
điền , cố sức cày sâu cuốc bẫm , cũng
nhặt được hạt rơi hạt rụng . Bài sau đây chưa thành thơ Lục Bát.
Em xin gửi lại những gì cho anh
Khi mang xuống mộ cùng người tri âm
Anh tặng em quả chuông chùa
Khi ba tiếng mở thì mưa bỗng rào…
( Đồng Đức Bốn - Kính gửi anh Điềm )
…Đôi
uyên ương trắng bay rồi
Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng
Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
Tiếng nghe tha thiết bên trời chớm đông
Nửa đêm đắp mảnh chăn hồng
Lại nghe hoa lạnh ngoài đồng thiết tha
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu
( Phạm Thiên Thư – Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng
Bùi Giáng làm mới Lục bát bằng chữ nghiã trùng trùng điệp điệp , bằng sự đan cài từ Hán Việt và thuần Việt , bằng tài hoa rất mực trong những lời cợt đuà như con trẻ , nói chuyện không đâu mà thành tư tưởng . Thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng. Kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều nhà thơ khác ở miền
Chào em? có lẽ chẳng nên
Nói gì nữa cả? giữa đêm tối mò!
Chào em tính mệnh so đo?
Chào em tính thể tò mò tuyết vân?
Ấy xa xôi ? ấy gũi gần ?
Từ từ tự hỏi, tần ngần em sẽ thấy ra
Đi về trong cõi người ta
Người là người lạ ta là quá quen ?
Anh từ thể dục dưỡng điên
Thành thân thơ mộng thiên nhiên một giờ
( Bùi Giáng - Chào Em )
Du Tử Lê thử nghiệm cách
tân Lục Bát, bằng cách dùng nhịp lẻ, nhịp chỏi, ngắt câu, xuống hàng , dùng dấu phẩy (, ) ,
dấu gạch nghiêng (slash). Du Tử Lê cũng có những bài Lục Bát thành công như Chân Dung , Cõi Tôi , song với lối cách tân ấy , Du Tử Lê đã băm nát nhịp
thơ , làm bầm dập Thi thể , Lục Bát thành
ngọng nghịu quá đỗi .
thắp thêm nến. Gọi vai về
dấu môi Bồ Tát, lá, lìa
biển lần theo chân Quán Âm
ngón tay tràng hạt, nhang, đèn, phố, lu
tóc thơm ngực, múi khuya, mù
trái vun ấn tượng; nẫu lìa, biệt đen.
thắp thêm nến. Giới định, thiền
giải oan chuông, mõ; xóa kinh điển, người
gửi thêm đời, muộn, chút tôi
rớt trên lục tự; rũ ngoài tam quan.
thắp thêm nến. Nhiễu tâm phiền
gió, thâm, tím ngọn, cây tiền thân, mưa.
( Khúc Tháng Hai, Chín Sáu – Du Tử Lê )
Lục Bát hay là ở nhịp điệu tự nhiên như hơi thở , như lời nói. Nhạc cuả
Lục Bát là nhạc cuả tiếng Việt đa thanh
mượt mà , với rất nhiều từ láy, từ ghép . Nhạc cuả Lục Bát là nhạc cuả tâm
hồn Việt , bình dị nhưng cao vời . Nhạc
cuả Lục bát là nhạc cuả hình tượng , không phải nhạc cuả kỹ thuật dấu phẩy ( ,
) . Xin thử lắng nghe câu thơ Kiều :
Đã
mòn con mắt phương trời đăm đăm
( Nguyễn Du
)
Giai điệu vút lên , liền mạch , bay bổng , xa thẳm trời xanh muôn trùng ,
không thể là nhịp chỏi , nhịp lẻ . Nhạc thơ ấy không thể dùng dấu phẩy mà ngắt
ra . Bởi nếu chặt khúc câu thơ , cánh hồng sẽ gẫy và con chim hồng tuyệt vời ấy sẽ rơi xuống đất , chết cùng với Lục bát . Cũng vậy con mắt đăm đăm là con mắt nhìn mãi về
xa xăm , làm sao cắt khúc được sự dõi theo không cùng ấy cuả tâm thức ?
Có những cách làm mới Lục Bát bằng thơ ngắt dòng , thơ
bậc thang . Nhưng Đó chỉ là mới cái dáng vẻ câu thơ ,
không tạo ra được cái mới nghệ thuật cho Lục Bát
LỤC BÁT Ở ĐÈO
NGANG
Dập
dềnh bóng núi . Đèo Ngang
Mình
ta
Với
nỗi buồn vàng
Trong
tay.
Đường
xa
Chim
mỏi cánh bay
Chở
theo
Một
khối tình đầy
Long
đong
Qua
vùng nước trắng mênh mông
Tàu
trôi
Ta
cũng bồng bềnh trôi theo
Bướm non tơ
Khóc
trong chiềuVẫy tay
Gửi
một lời yêu
Lỡ
làng
Thôi
thì thôi
Nỗi
buồn vàng
Thả
ta xuống đỉnh trời hoang
Một
mình..
( Phạm Thị Ngọc Liên -19-10-1990 )
Ly
cà phê nưã
tỉnh
mê
Từng
đôi sớm biết đi về có nhau
Còn
em
lãng
đãng đi đâu
Anh
về
so
sẫm
đuã
màu
gỗ mun
Trơ
vơ riêng chiếc bưã thường
Qua
phin hồng hạnh
giọt buồn lọc mau
Ai
nhường nưả giọt chung màu
Cho
tôi tỉnh táo khuấy sầu
tan chăng
( Hoàng Cầm – 1992 )
Gần đây ,Trần Ngọc Tuấn viết Lục Bát Tứ Tuyệt
với tư tưởng Thiền . Đó là một chọn lưạ không dễ dàng chút nào. Tứ Tuyệt có độ
nén rất cao . Ca dao lại vút đi rất nhanh trong sự phát triển tứ thơ .Và không
dể để chuyển hoá tư tưởng Thiền thành một tứ thơ vưà thanh thoát mượt mà Lục Bát vưà uyên bác trí tuệ Tứ Tuyệt . Qua Dốc Sương Mù cuả Trần Ngoc Tuấn là một
thành công bước đầu
Mồ
hôi giọt giọt , gió ù ù bay
Nghìn
tia nắng dệt trang ngày
Bước
chân hoan hỉ , đêm này lưả reo
( tậpthơ Suối
Reo – Nxb Hội Nhà Văn 2006 )
Những nhà thơ trẻ như Nguyễn Việt Chiến ( Tiếng Trăng , Cát Đợi ..), Nguyễn
Thế Hoàng Linh ( Bến , Khẩu Vị , Chuyển Hoa, Tinh Mơ ..) có chạm đến Lục Bát , nhưng hồn thơ chưa định
hình
TRẢI CHIẾU NGẮM TRĂNG
cụ bà trải chiếu giữa sân
cụ ông đập đập hai chân vào ngồi
chán ghê hết thuốc lào rồi
trưa vừa rào lại đấy thôi quên à
tôi bảo hết thuốc lào mà
vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
điếc rồi thế có chán không
cụ bà trải chiếu giữa sân
cụ ông đập đập hai chân vào ngồi
chán ghê hết thuốc lào rồi
trưa vừa rào lại đấy thôi quên à
tôi bảo hết thuốc lào mà
vừa cơm xong nấu cháo gà gì ông
điếc rồi thế có chán không
giờ này còn định ra sông tắm
trời
ông đúng là đồ dở hơi
dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
ông bảo gì mà cháy nhà
phỉ phui cái miệng không là chết oan
ông đúng là đồ dở hơi
dở hơi mà lại biết bơi đấy bà
ông bảo gì mà cháy nhà
phỉ phui cái miệng không là chết oan
( Nguyễn Thế Hoàng Linh 16.06.07 )
Người ngồi trong đền phải là nhà thơ mà Lục bát là sự chọn lưạ cho sự nghiệp cuả mình ,
phải có được nhiều bài Lục bát hay (2), phải có những đóng góp làm phát triển
Lục Bát. Và nhất là phải viết được những trường ca Lục Bát có giá trị . Chính
trường ca Lục Bát khẳng định tài năng cuả nhà thơ .Những nhà thơ chỉ tạt ngang
hoặc chợt rẽ vào Lục Bát, vốn sống và vốn từ nghèo nàn , sẽ chết yểu trên đường tìm vần , sẽ chẳng đủ tình , đủ ý , đủ hơi sức
sáng tạo trên con đường càng đi càng dẫn đến tuyệt lộ .
Nguyễn
Du là người giữ đền , không phải là
người xây đền , vì trước Nguyễn Du , Thiên Nam Ngữ Lục đã là một toà nhà đồ sộ ( 8.136
câu Lục Bát ) . Nguyễn Du làm cho Lục Bát trở thành đền thiêng cuả thi
ca dân tộc .
Tiếp theo, Nguyễn Bính là người bước chân vào đền và ngồi chiếu trên
, vì ông có riêng một góc trời Lục Bát không bị Nguyễn Du che lấp. Tất nhiên
Lục Bát Nguyễn Bính không thể sánh được với Lục Bát Đoạn Trường Tân Thanh .
Tố Hữu ngồi ở một chiếu khác , Lục
Bát Tố Hữu chuyên chở được đời sống hiện
đại , đời sống dân tộc trong kháng chiến ( Việt Bắc , Nước Non Ngàn Dặm , Mẹ Suốt ..
) .Điều mà Nguyễn Du đã không làm được trong thời đại cuả ông. Lục bát Nguyễn
Du không chuyên chở được những biến đổi bể dâu thời Lê-Trịnh-Gia Long ,
không ghi lại được những trang hào hùng
cuả dân tộc khi Nguyễn Huệ phá tan quân Thanh1789.
Người ngồi ngang hàng với Nguyễn Du là Phạm
Thiên Thư .Ông đã viết 20.000 câu Lục Bát
. Đoạn Trường Vô Thanh cuả ông dài
hơn truyện Kiều cuả Nguyễn Du 20 câu . Đưa Em
Tìm động Hoa Vàng là một trong những Lục bát tình hiện đại tuyệt hay .Phạm
Thiên Thư sáng tác bằng vô thức , cõi vô thức đã đạt tới bước đại ngộ cuả Thiền
.
Bùi Giáng là người phá đền và xây mới bằng
những câu Lục Bát nghịch ngợm tài hoa , như không thể nghịch ngợm tài hoa hơn (3).
Lục Bát là cõi trời mênh mông cuả thi ca dân tộc. Thế kỷ
XXI ai sẽ là người bước vào ngôi đền
thiêng ấy ? ai sẽ khai mở được những lối
đi mới vào đền ? Tôi chưa thấy được bóng dáng nhà thơ trẻ nào hôm nay chuẩn bị
cho hành trình bay vào cõi trời mênh
mông ấy.
Xin đọc thêm ;
(1) Trần Mai Ninh –Nxb Văn Học 1980. tr 73 -74
(2)Bùi Công Thuấn – ĐI TÌM THƠ HAY – www.vannghesongcuulong.org.vn
( tháng 5/2007 )
(3)Bùi Công Thuấn – BÙI GIÁNG , AI NGƯỜI
CHIA XẺ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét