“Tóc bạc rồi hồn vẫn
trẻ thơ”
(Đọc Đồng Dao Cho
Mình - thơ Đỗ Minh Dương-Nxb Trẻ 2013)
Bùi Công Thuấn
Bài thơ Nằm Võng Giữa Rừng Chiến Khu của Đỗ Minh Dương có sức hút kỳ lạ sự
chú ý của tôi đối với thơ anh
Về nguồn với chiến khu xưa
Lại cùng mắc võng đung đưa giữ rừng
Võng chao cây động ngập ngừng
Sương nhòa mắt lá rưng rưng mái đầu
*
Võng nghiêng về phía khe sâu
Nhớ ai đẵn gỗ bắc cầu trong mưa
Võng nghiêng về phía rừng thưa
Nhớ triền rẫy chín hương mùa thoảng bay
Võng nghiêng về phía rừng dày
Bếp Hoàng Cầm tỏa ấm ngày khao quân
Võng chao cho dạ bần thần
Thương hoài mắt mẹ trong lần tiễn đưa
Nghiêng rừng cơn sốt mùa mưa
Bạn hy sinh để võng thừa chông chênh
Có đêm thức giấc giật mình
Lệnh truyền bỏ võng kíp hành quân ngay
Quân đi dưới tán rừng dày
Lần theo dấu võng dấu tay bạn bè
Bom rơi đạn nổ tứ bề
Cây rừng gẫy đổ võng che chở người
*
Bây giờ đưa võng thảnh thơi
Tiếng rừng man mác như lời mẹ ru
Bạn nằm kể chuyện chiến khu
Võng chao nghiêng cả rừng thu bồi hồi”
Ai đã sống trong thời
đạn bom chiến trận, đọc bài thơ này hẳn sẽ xúc động về những ngày tháng hào
hùng và thắm thiết nghĩa tình. Điều ấy giờ đây đã trở thành tâm thức Việt Nam.
Bài thơ cũng ánh lên nét tài hoa của ngòi bút Đỗ Minh Dương. Trong tập Đợi Chờ Bình Minh Em (51 bài) của anh cũng có nhiều bài hay như vậy
(Áo Lính Một Thời, Hà Nội Một Chiều Mưa,
Kỷ Vật Thiêng Liêng, Với Dòng Sông Quê, Uống Rượu Với Người Trong Tranh...)
.
Tôi trộm nghĩ điều
này. Chiến tranh vệ quốc đã trở thành thiêng liêng, bao nhiêu cảnh ngộ dữ dội,
bao nhiêu cảm xúc mãnh liệt, bao nhiêu nỗi niềm sâu lắng, và bao nhiêu điều muốn
sẻ chia thôi thúc nhà thơ sáng tạo. Những bài thơ như Nằm Võng Giữa Rừng Chiến Khu dễ làm say lòng người. Trở về cuộc sống
đời thường, những sự tích hào hùng không còn nữa, những xúc cảm mãnh liệt đã
phôi pha, cuộc sống cơm áo kéo nhà thơ từ
đỉnh cao lý tưởng xuống những nhọc nhằn ghì sát đất. Và hơn thế, những nhiễu
nhương của đời trần tục làm thất vọng nhà thơ. Tôi tự hỏi nhà thơ lấy đâu ra cảm
hứng lãng mạn, tìm đâu ra một bầu trời trong sáng để cho hồn thơ vút lên? Cho
nên thơ được in rất nhiều nhưng thơ hay thì phải đi tìm.
Người làm thơ hôm nay
phải nhọc nhằn đi tìm được tứ thơ mới, phải vắt cạn tâm huyết mình để thắp lửa
cảm hứng trong tim, và trăn trở khôn nguôi để làm mới ngòi bút. Họ chống chọi
kiệt sức với những lối mòn thơ ca đang làm cho câu chữ của mình cũ đi. Nhiều
người đã không vượt qua thế hệ làm thơ thời chống Mỹ, và không vượt qua chính
mình, đành ngậm ngùi nhìn ngọn nến sáng tạo tàn lụi. Đọc Đồng Dao Cho Mình của Đỗ Minh Dương, tôi thấy hồn thơ anh vẫn còn
sung sức và có chỗ khởi sắc.
2.Đồng dao cho mình
Đồng dao là những khúc hát dân gian của
trẻ con, thường gắn liền với những trò chơi. Nội dung của đồng dao là câu chuyện
về những sự vật gần gũi trong thế giới thần thoại của trẻ, nhiều bài ngô nghê
chỉ có vần điệu cho vui .Chẳng hạn bài : Chi
chi chành chành/ Cái đanh thổi lửa/ Con ngựa chết trương…hoặc bài “dung dăng
dung dẻ…” Trẻ con thích vui, thích lạ, thích ngộ nghĩnh, không cần tra hỏi
ý nghĩa là gì. Để được sống trong thế giới đồng dao, Đỗ Minh Dương tìm về thế
giới tuổi thơ
Tôi về tìm lại tuổi thơ
Một thời cất giữ trong bờ tre gai
Chui rào xước cả vành tại
Mùi trăng thơm thể mùi khoai nướng vùi
Ổ rơm nằm cuộn…mà vui
…
Chợt nghe tiếng trẻ xì xào
Hỏi rằng :”Ông ở thôn nào lại chơi?”
(Tìm lại tuổi thơ)
Tứ thơ “Mùi trăng thơm thể mùi khoai nướng vùi” thật lạ lùng thú vị. Câu hỏi
của trẻ chắc làm nhà thơ giật mình nhận ra mình đã già. Bài thơ kết bằng một nụ
cười hồn nhiên. Tìm Lại Tuổi Thơ là
nhạc của ca dao thì Đồng Dao Cho Mình mới
thực là nhạc của đồng dao dân dã.
Từng qua chiến trận
Ngỡ còn như mơ
Cớ gì phải sợ
Những điều vu vơ:
…
Sợ trái chưa chín
vỏ đã đổi màu
Sợ người buông câu
chẳng nhằm vào cá
Sợ tay ném đá
dấu vào sương thu
Sợ khúc hát ru
trở nên xa lạ…
(Đồng dao cho mình)
Bài thơ sử dụng thể 4
chữ của đồng dao, thơ điệu nói. Nhiều hình ảnh biểu cảm liên tiếp xuất hiện
theo vần điệu, đó là những hình ảnh của thi pháp ca dao. Thế nhưng có sự đột ngột
chuyển hình ảnh biểu cảm thành tứ thơ, ngôn ngữ trở nên hàm nghĩa và tích tụ
năng lượng thẩm mỹ đáng ngạc nhiên. Trong khoảnh khắc, bài thơ ghi được ấn tượng
nơi người đọc. Thơ dung dị như đồng dao nhưng lại lãng mạn như thơ trữ tình, và
thấp thoáng ý vị triết lý nhân sinh.
Đồng dao cho mình là
những khúc hát cho chính nhà thơ, vừa là tự tình, vừa là bày tỏ, vừa là nhận thức,
vừa là triết lý nhân sinh. Những bài thơ tâm tình với mẹ, với cha (Ngày Giỗ Mẹ, Khuyết, Trên cát Bỏng) chia
sẻ nỗi đau với người vợ mất chồng, con mất cha (Với Người Trong Ảnh, Điểm Tựa) là những bài thơ đạt tới chỗ sâu thẳm
của hồn người, của tình người, mà đời sống xô bồ hôm nay ngỡ như vùi lấp đi mất
Đứa trẻ không cha
Con cưng của chị
Chuyện thời chống Mỹ
Nó ngồi im nghe
Kể cho bạn bè
Pha màu thần thoại…
Nhà tranh cỏ dại
Trẻ già nương nhau
Đêm trở cơn đau
Chiều lên cơn sốt
Trong mê thảng thốt
Chị gọi người xưa
May còn lời thưa
Tiếng con gọi mẹ
Như cây lặng lẽ
Chở che cho người!
(Điểm Tựa- Tặng chị Thảo)
Thể đồng dao 4 chữ hồn
nhiên đã hoàn toàn trở thành thơ trữ tình. Nhạc thơ giúp phát triển nhanh mạch
truyện. Câu chuyện được kể thật khách
quan và tự nó có sức tác động đến cảm xúc của người đọc. Thương quá tình cảnh của
chị và của cháu nhỏ, nhưng cũng cảm phục biết bao những hy sinh âm thầm nhưng
phi thường của những người vợ Việt Nam có chồng hy sinh trong chiến trận. Nói
như thế, đồng nghĩa với sự khẳng định tài thơ của Đỗ Minh Dương trong việc khắc
họa vẻ đẹp tính cách con người Việt Nam trong đời thường. Thực ra đó chính là đồng dao cho mình của tác giả. Quan sát,
tìm kiếm, khám phá những giá trị bị khuất lấp trong đời thường, để nuôi dưỡng hồn
thơ thanh khiết. Ở mảng thơ này, bài Chợt
Nghĩ có ý tưởng thật lạ. Tác giả phập phồng về cái ngày “Quỷ thần đến rước”, và tác giả sẽ mang
theo một gánh phong trần buồn đau, để,
“Hóa thân vào mảnh đất nghèo
Hồn theo cơn gió ngược chiều ly hương
Qua nơi xưa –đất chiến trường
Gặp bao đồng đội hỏi đường về quê…”
Người ta trước khi chết
thường nghĩ đến siêu thoát, đến Niết Bàn hay Thiên đàng cho linh hồn được thảnh
thơi. Đỗ Minh Dương lại hóa thân vào mảnh đất nghèo, lại về chiến trường xưa để
gặp bao đồng đội còn xa lạc quê hương. Đó là những tứ thơ để thể hiện cái tình
quê và tình đồng đội sâu nặng vượt qua cả kiếp lai sinh. Thơ đời thường nói được
những tình ý chân thành như thế thật không dễ tìm thấy trong thơ hiện nay.
3. Đồng dao cho người tình
Đỗ Minh Dương gọi tình yêu của mình
là “tình khờ”
Tôi kẻ dại khờ
Tình yêu nông nổi
Khát giọng em nói
Tin lời trong mơ
Như sóng vỗ bờ
Như cây trĩu quả
Muốn dâng tất cả
Vì yêu nát lòng
Thoảng nghe em buồn
Lòng tôi muốn khóc
Thương em khó nhọc
Những mong đỡ đần
Mặc đời chuyển vần
Kệ lời chê trách
đất nung nên gạch
Em làm nên tôi…
Vẫn là thể 4 chữ đồng
dao, vẫn là cách nói bộc trực bằng những hình ảnh biểu cảm. Những tình những ý
không mới so với thơ tình truyền thống, nhưng bài thơ kết bằng một tứ rất lạ và
cũng rất đồng dao. Mặc đời chuyển vần/ Kệ
lời chê trách/ đất nung nên gạch/ Em làm nên tôi…Đất nung nên gạch thế nào
thì tình yêu của em nung nấu tôi, làm nên tôi như thế. Tôi không còn là tôi mà
trở thành tình yêu hiến dâng, tình yêu chia sẻ. Dẫu vậy, tôi chỉ là kẻ dại khờ,
bởi tình yêu của em với tôi vẫn xa tầm tay với. Nhiều bào thơ tình trong Đồng Dao Cho Mình có cái chất vị ngọt
ngào nhưng xót xa, hạnh phúc trong đau khổ, rất thực mà rất ảo, rất gần mà rất
xa, rất thánh thiện nhưng cũng trần tục, và không sao lấp đầy những khát vọng
yêu thương, thành ra người thơ không sao quên được, và vì thế duyên thành nợ,
niềm vui trở thành sự dằn vặt khôn nguôi.
Nếu quên em được
hẳn anh nhẹ lòng!
trăng trôi bến nước
trải buồn đầy sông
Thuyền anh cũ nát
chơi vơi bến bờ
qua bao ghềnh thác
tóc chiều bơ vơ!
Chim bay về mộng
lạc vào tim đau
cõi đời cao rộng
dễ gì thương nhau?
Bao lời hẹn ước
tan vào thinh không
nếu quên em được
hẳn anh nhẹ lòng!
Đọc bài thơ thật chậm
và trải lòng mình vào từng câu chữ, từng tứ thơ, bạn đọc sẽ chia sẻ được với
nhà thơ một nỗi buồn thấm thía, mênh mông như ánh trăng trải trên sông. Tất cả
cứ trôi đi, chỉ còn lại trái tim đau, chơi vơi trong ghềnh thác, suốt một đời cả
đến khi tóc đã về chiều, hồn vẫn bơ vơ. Bài thơ có những tứ thật đẹp và diễn tả
cái bi thương sâu nặng của một nỗi vô vọng :”Cõi đời cao rộng/dễ gì thương nhau?”. Chỉ những ai đã yêu chân
thành, yêu thực sự, chỉ những duyên nợ từ kiếp nào quấn vào, mới cảm nhận được
hết những giọt nước mắt đẹp như ngọc của Mỵ Nương làm tan vỡ bóng hình Trương
Chi trong bài thơ này.
Ly rượi mang hình bóng
Trương Chi đã vỡ, còn tìm đâu thấy tình yêu. Đỗ Minh Dương cũng có một tứ thơ
như thế trong bài Quên
Quên em. Anh trở về anh
Trồng câu ảo vọng, vinh cành viển vông!
Ngày xuân hoang hoải cõi lòng
Nghe hoa cỏ dại mọc trong tim mình…
Vẩn vơ khôn rượu, dại tình
Uống say hình bóng, đập bình… tìm em
Vẫn biết là cô độc, là
viển vông, là ảo vọng, vẫn phải sống với trái tim hoang vu cỏ dại, vẫn nhận ra
lẽ khôn dại khi yêu, nhưng người thơ không sao quên được. Uống rượu say để
quên, đập vỡ bình cho hả những nỗi niềm. Nhưng không, càng uống càng say men
tình, càng quên càng khao khát tìm em. Hình bóng em làm anh nghiêng ngả, tìm em
trong quên lại càng nhớ. Đỗ Minh Dương đã diễn tả được khá sâu sắc và phong phú
tâm trạng yêu trong nhiều hoàn cảnh, chiều kích và nhiều sắc thái tâm hồn. Bỗng Dưng Lại Buồn là nỗi day dứt xót
xa. Ru Em là một ám ảnh rất sâu trong
tâm thức. “Nhớ thương trong nỗi cách vời/
Đêm đêm tôi lại ru người trong mơ”. Đã có lúc người thơ mơ thấy người trong mơ, dịu dàng trau chuốt trở lại, như chiếc bình hoa vỡ lại lành (Trong mơ). Thế nhưng, em lại ra đi, và
người thơ cứ chờ mong mãi. Dỗ Minh Dương có những tứ thơ thật đẹp, thật khóang
đạt, và tình ý sâu nặng thấm thía.
Sông quê loang loáng trăng mờ
Bướm vàng xếp cánh đậu hờ hoa trôi
Cuối mùa gió giật lá rơi
Hoàng hôn cháy đỏ phương trời đợi em…”
(Đợi phía hoàng hôn)
3. Đồng dao cho NGƯỜI
“Chim khôn hướng núi bay về
Người khôn tựa gốc bồ đề đợi nhau
*
Kẻ nào sống tựa bóng đêm
Thường nơm nớp sợ ngày lên chói lòa…
Đem vàng đi đổi lấy danh
Bao giờ đổi được cái danh thành NGƯỜI
(Thơ hai câu)
Những câu thơ trên
mang dáng dấp tục ngữ, bởi tục ngữ là kinh nghiệm sống, là minh triết dân gian
Việt. Tôi gọi đó là minh triết của Đỗ Minh Dương. Bởi anh đã vượt qua được cái
quay cuồng nhị nguyên và đạt đến sự bình tâm dịu dàng. Anh đã trải nghiệm cái sự
thật này :” “Sợ người buông câu/ Chẳng nhằm
vào cá/ Sợ người ném đá/ Dấu vào sương thu”. Anh cũng hiểu được nhiều bộ mặt
con người:”Gương mặt lo buồn nặng trĩu/
cuộc đời đầy nỗi truân chuyên/ Kẻ không thích nghe lời khuyên/ sống đời kiêu
căng phách lối/ Hay thề, thường người nông nổi/ Trầm lặng, vốn người ưu tư/ Mặt
trẻ sáng niềm mộng mơ/ Lòng già hay thương quá khứ “(Dự Báo). Không phải là nhà thơ Hiện Sinh, anh vẫn nhận ra thân phận
cô đơn khi thả cho chim bay đi, “Chim bay
về chốn mù khơi/ bỏ tôi trống vắng… chơi vơi nỗi buồn!(Phóng Sinh).
Ý nghĩ lan man dọc đường của anh phải
chăng là những gì anh đã “chứng ngộ”?
Lan man ý nghĩ dọc đường
Trăng khuya huyền ảo khôn lường dở hay
Làm trời cho lộng mây bay
Làm sao để sáng, làm cây để già
Làm sông mong chở phù sa
Làm quả đợi chín, làm hoa đợi tàn…
(Dọc
đường)
Nhà thơ mong mình được làm sao để sáng, làm sông chở phù sa, làm quả đợi
chin, thế nhưng ở đời nào biết thế nào là hay là dỡ, đẹp như hoa cũng tàn.
Anh ngoảnh mặt kiếm tìm tám hướng, nhưng vô vọng:”Cầu lời gió/ gió thoảng bay/ Cầu lời mây/ mây rong núi/ Cầu lời núi/
núi vời trông/ Cầu lời sông/ sông lần lữa/ Cầu lời lửa/ khói lắt lay/ Cầu lời
cây/ cây rũ bóng..(Nguyện Cầu). Anh cũng đã tìm đến cõi Thiền, nhưng không
phải để thoát tục, mà để thương đời hơn.
Vào
chùa nghe nỗi chuông ngân
Buồn
vui trăm nẻo, chuyện gần chuyện xa
…
Ai
mong chạm được Niết bàn
Tôi
thương khổ lụy lầm than kiếp người
(Trong
tiếng chuông ngân)
Có lẽ chính tấm lòng thương kiếp người
lầm than đã giúp anh tìm được ý nghĩa cuộc sống
Bao điều ta chưa hề biết
Đang ở mùa xuân phía trước đời ta
Vạn điều ta đã trải qua
Bỗng mới lạ như chưa từng được biết
Lòng rạo rực giữa ngày xuân tháng tết
Tóc bạc rồi hồn vẫn trẻ thơ…
(Giữa
ngày xuân)
Tôi thích cái hồn nhiên “bỗng dưng “ của anh, không phải Thiền những
vẫn có một đóa hoa mai của Mãn Giác Thiền sư bừng nở, cùng với nụ cười rất hiền
của Ma-ha Cadiep dễ thương.
Bỗng dưng một nhánh mai vàng
Nở bừng nắng sớm che ngang lối nhìn
…
Bỗng dung nhặt được nụ cười
Giấu đi chẳng đặng, trả người không xong
…
Bỗng dưng gọi một cái tên
Hiện lên gương mặt làm quên chính mình…
(Bỗng Dưng)
4. “Dung dăng Dung dẻ” với tác giả
Đồng Dao Cho Mình có nhiều bài thơ hay. Tuy vậy, khi thơ là tiếng nói trực tiếp
những nghĩ suy chính luận, thì thơ Đỗ Minh Dương trở nên khô cứng, rất ít chất
thơ. Hình như đó là những bài học đạo đức (Trước
Tượng Đài, Số, Thơ). Anh nghiêng về phía chuẩn mực. Và chỉ những khi hồn
thơ anh bay trong cõi trời lãng mạn, lúc ấy thơ anh mới thực sự khởi sắc (Tìm Lại Tuổi Thơ, Nguyện Cầu, Như Có Như
Không, Bỗng Dưng Lại Buồn). Thơ anh nằm trong thi pháp thơ truyền thống, có
bóng dáng dân dã. Anh không tìm kiếm những kỹ thuật cách tân, nhưng có khám phá
những tứ thơ mới, đây là một nỗ lực bảo đảm được phẩm chất thi sĩ ở anh. Anh
thành công ở thể bốn chữ đồng dao chuyển hóa thành thơ trữ tình. Lục bát của
anh không mới về nghẹ thuật song nhiều bài cũng đủ hấp dẫn bạn đọc ở những nét
tài hoa.
Tôi hiểu Đồng Dao Cho Mình là cơn say tự tình của nhà thơ Đỗ Minh Dương, cơn
say của những tấm lòng tri kỷ.
Rựu làm mới bạn cũ
Thơ làm tươi tuổi già
Kể gì ngon hay nhạt
Say tự lòng say ra!
(Bạn
đến)
Tháng 2. 2014
__________________________________